Thầy giáo 31 tuổi bị ung thư gan do ăn loại thực phẩm nhiều người vẫn ăn mỗi sáng Bệnh thường gặp. Vì thường xuyên ăn loại thực phẩm này mà bệnh xơ gan của thầy giáo dần phát triển thành ung thư gan.
WCWIZr. Trần Đình Sử sinh ngày 10 tháng 8 năm 1940 là một giáo sư, tiến sĩ lý luận văn học, Nhà giáo Nhân dân, giảng viên Đại học Sư phạm Vinh, Đại học Sư phạm Hà Nội và một số trường đại học khác ở Việt Nam. Ông là một trong những nhà lí luận văn học hàng đầu của Việt Nam và có nhiều đóng góp trong việc làm thay đổi diện mạo nền lí luận, phê bình văn học của Việt Nam những năm cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI[1].Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo nhân dânTrần Đình SửGiáo sư Tiến sĩ, Nhà giáo Nhân dân Trần Đình SửSinhTrần Đình SửHuếQuốc tịch Việt NamDân tộcKinhTrường lớpGiáo sư Tiến sĩNghề nghiệpNhà Sư phạm, Nhà nghiên cứuGiáo sư Trần Đình Sử được phong danh hiệu Nhà giáo Ưu tú năm 2002, Nhà giáo Nhân dân năm 2010[2], được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng Huân chương Kháng chiến chống Mĩ hạng Ba, Huân chương Lao động hạng Nhì, Huy chương Vì sự nghiệp giáo Đình Sử là người có vốn kiến văn rộng, bao quát một khối lượng tri thức thuộc nhiều lĩnh vực, am hiểu văn học, văn hóa Việt Nam. Đóng góp lớn nhất trong sự nghiệp nghiên cứu và giảng dạy của ông tập trung vào hai lĩnh vực chính là lí thuyết và nghiên cứu văn học Việt Nam. Trong đó ở mảng lí thuyết, tập trung chủ yếu ở lĩnh vực thi pháp học[3] và tự sự học[4].Tiểu sửTrần Đình Sử sinh ngày 10 tháng 8 năm 1940 tại Huế. Quê gốc tại làng Phú Lễ, xã Quảng Phú, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên, sau này là Thừa Thiên - năm 1945, Pháp tái chiếm Huế, mặt trận Huế vỡ, gia đình Trần Đình Sử chuyển ra Quảng Trị, chuyển lên sống tại thôn Lương Hạ, xã Triệu Nguyên, Triệu Phong tỉnh Quảng Trị, thuộc Chiến khu Ba Lòng, Quảng Trị. Trần Đình Sử học tiểu học ở đó. Năm 1952 ra Đức Thọ Hà Tĩnh, ở Trại Thiếu sinh Quảng Trị, Học lớp 5 và 6 tại Hà 1954, hoà bình lập lại, Trại thiếu sinh Quảng Trị giải tán Trần Đình Sử chuyển sang trường học sinh miền Nam mới thành lập. Lúc đầu ở trường Học sinh Miền Nam số 8, đóng tại Dương Liễu, Hoài Đức, sau chuyển sang trường Học sinh Miền Nam số 24 đóng tại thôn Thượng Cát, Từ Liêm, Hà Đông. Tại đây học xong lớp 7. Năm 1956, khi lên cấp 3, ông chuyển sang Phân hiệu Học sinh Miền Nam đóng tại trường Phổ thông cấp 3 Hà Nội, tại Lý Thường Kiệt, sau chuyển sang trường Nguyễn Trãi 3 tại 30 Phan Đình Phùng Hà Nội và tốt nghiệp phổ thông ở khoảng thời gian từ năm 1959 tới năm 1961 ông học tại Phân khoa Trung văn, Khoa Ngoại ngữ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, đỗ thủ khoa, được giữ lại làm cán bộ giảng dạy từ tháng 10 năm năm 1962 đến 1966 ông được cử đi tu nghiệp văn học tại Đại học Tổng hợp Nam Khai, Khoa Văn học theo chế độ tiến tu thực tế học theo năm thứ ba và thứ tư. Năm 1966 về nước và được cử vào giảng dạy tại Trường Đại học Sư phạm Vinh, Bộ môn Lí luận văn học, khoa năm 1968 đến 1969, ông học chuyên tu Nga văn một năm. Năm 1974, tiếp tục học chuyên tu Nga văn 1 năm nữa. Năm 1976 đến năm 1980 làm nghiên cứu sinh tại Khoa Ngữ Văn, Đại học Tổng hợp Kiev, Liên Xô, bảo vệ luận án ngày 20 tháng 10 năm 1980. Giáo viên hướng dẫn là GS. TS. Lidia Pavlovna Alexandrova, chuyên gia về tiểu thuyết lịch sử. Tên đề tài Thời gian nghệ thuật - yếu tố chỉnh thể của hình tượng nghệ thuật qua tiểu thuyết lịch sử viết về Lênin.Năm 1981, Trần Đình Sử về nước và làm việc tại Khoa Ngữ Văn, giảng dạy Bộ môn Lí luận văn học, Đại học Sư phạm Hà Nội. Ông làm việc ở đó cho đến khi về hưu năm 2008. Tuy về hưu, nhưng ông vẫn tham gia đào tạo bậc thạc sĩ và tiến sĩ ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội và nhiều cơ sở đào tạo khác thuộc các trường đại học và học viện ở Việt Nam cho đến nghiệpTrần Đình Sử bắt đầu nghiên cứu khoa học từ năm 1969, ông công bố Báo cáo khoa học nhan đề “Phong cách cơ bản của thơ Tố Hữu”, sau được trong in Kỉ yếu khoa học Khoa văn Đại học Sư phạm Vinh 1974. Trong bài này ông đã vận dụng khái niệm thế giới nghệ thuật, không gian, thời gian nghệ thuật. Năm 1972, ông viết tiểu luận Đặc trưng văn học trong tính chỉnh thể 100 trang. Cũng trong thời gian này, ông đã dịch cuốn Giáo trình Dẫn luận Lí luận văn học của L. V. Sêpilova M., 1956 sang tiếng Việt, in roneo để làm tài liệu tham khảo cho sinh viên. Cũng vào năm 1974, Trần Đình Sử tham gia biên soạn cuốn Thuật ngữ nghiên cứu văn học, do Đại học Sư phạm Vinh xuất hướng nghiên cứu khoa học chính của Trần Đình Sử bao gồm nghiên cứu lí thuyết văn học và văn học Việt Nam. Trong đó, về lí thuyết, ông tập trung vào đặc trưng văn học. Trần Đình Sử đi sâu khám phá các giá trị nghệ thuật của văn học, theo thuật ngữ chung của giới học thuật Nga gọi là thi pháp học. Sau khi ở Nga về, Trần Đình Sử chủ yếu nghiên cứu thi pháp học về lí thuyết và thực hành. Và để giảng dạy về thi pháp học ông đã tổng hợp các nghiên cứu của học giả Nga để viết thành giáo trình thi pháp học ở Việt Nam. Sau này, khi Liên Xô sụp đổ, các giáo trình của N. Tamarchenco và V. Tiupa, Broitman mới được xuất bản. Trong giáo trình của Trần Đình Sử, ông đã sử dụng các phạm trù của các nhà thi pháp học Nga như Quan niệm con người, không gian, thời gian nghệ thuật, hình tượng tác giả, thể loại, trần thuật, ngôn ngữ. Việc trình bày các trường phái thi pháp học phương Tây cũng gặp nhiều khó khăn vì ở Nga vào thời điểm những năm 80, không có công trình nào miêu tả các trường phái nghiên cứu phương Tây một cách chính diện, họ chỉ coi đó là các học thuyết tư sản và tiến hành phê phán. Trần Đình Sử phải qua các tài liệu phê phán đó để lọc lấy những tư tưởng mà ông cho là mới mẻ để đưa vào giáo trình của tư tưởng của Trần Đình Sử về mặt lí thuyết được thể hiện rõ ràng trong các chuyên luận và các giáo trình. Cụ thể, gồm các chuyên đề cao học Đặc trưng của văn học. Thi pháp học, Tự sự học. Ông có tham vọng nghiên cứu thi pháp các hiện tượng văn học tiêu biểu của Việt Nam và đã xuất bản nhiều chuyên luận chuyên sâu, trong đó tiêu biểu là các công trình nghiên cứu về Tố Hữu, Nguyễn Du, và Văn học Trung đại Việt Nam[5].Một khuynh hướng nữa trong các công trình của Trần Đình Sử là nghiên cứu văn học so sánh. Hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu đăng báo, in sách, giảng chuyên đề cao học. Ông dự kiến sẽ xuất bản Giáo trình Văn học so sánh vào năm mảng nghiên cứu lí thuyết văn học Nga thế kỉ XX, Trần Đình Sử đã nghiên cứu, phiên dịch M. Bakhtin, IU. Lotman, D. Likhachev, V. Girmunski và nhiều người khác. Ông cũng nghiên cứu lí thuyết văn học Trung Quốc hiện đại và đã có sách xuất bản về mảng đề tài này. Ông cũng tập trung vào hướng nghiên cứu di sản lí thuyết văn học trung đại Việt Nam, thể hiện qua các bài báo lẻ và sách dịch của Lixêvich… Đề tài yêu thích của ông là nghiên cứu quan niệm về con người trong văn học. Ông đã xuất bản công trình Con người trong văn học trung đại Việt Nam. Ông cũng quan tâm đến kí hiệu học và đã có các bài dịch thuật và một số bài nghiên cứu về vấn đề tham gia đào tạo tiến sĩ từ những năm 80, hướng dẫn tiến sĩ từ năm 1990 và đã hướng dẫn hơn 30 nghiên cứu sinh bảo vệ thành công luận án tiến vị công tácTrong thời gian công tác ở Đại học Sư phạm Hà Nội ông đã từng giữ những cương vị sauTrưởng Khoa Ngữ Văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 1990 - Bộ môn Lí luận văn học và Chủ nhiệm Khoa Ngữ Văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 1997 – viên Hội Nhà văn Việt Nam, viên Hội đồng lí luận phê bình Hội Nhà văn Việt Nam từ 1995 đến viên Hội đồng lí luận phê bình văn học nghệ thuật Trung ương từ 2003 đến viên Hội đồng Chức danh nhà nước ngành Văn học từ năm 1990 đến phẩmCác công trình nghiên cứu, dịch thuật xếp theo thời gianDẫn luận nghiên cứu văn học do G. N. Pospelov chủ biên dịch chung với Lại nguyên Ân, Lê Ngọc Trà, Nguyễn Nghĩa Trọng, Nhà xuất bản GD, 1985, 2 tập. Năm 1998 tái bản bỏ bớt một số chương, chỉ còn 1 trình Lí luận văn học, tập 1 và 2, viết chung 1986 và 1987. Ông viết 11 chương trên 30 chương của bộ pháp thơ Tố Hữu, Nhà xuất bản. Tác phẩm mới, 1987. Tái bản 5 tưởng văn học Trung Quốc của I. S. Lisevich, Nhà xuất bản. ĐHSP. Hồ Chí Minh, 1990. In lại nhiều lần tại Nhà xuất bản. Giáo số vấn đề thi pháp học hiện đại trong chương trình văn học phổ thông, Vụ giáo viên xuất bản, 1993. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên. Do Vụ Giáo viên, Bộ GD và ĐT đặt hàng nhằm nâng cao trình độ giáo vấn đề thi pháp Dostoievski, dịch chung với Lại Nguyên Ân và Vương Trí Nhàn, Nhà xuất bản. Giáo dục, 1993. Tái bản năm thế giới nghệ thuật thơ, Nhà xuất bản. Giáo dục, 1995. Nối bản in lại nhiều luận và phê bình văn học, Nhà xuất bản. Hội nhà văn, 1996. Giải thưởng Hội nhà văn năm 1997, tái bản 6 lần tại Nhà xuất bản. Giáo pháp thơ Đường, viết và dịch chung với Nguyễn Khắc Phi, Nhà xuất bản. Giáo dục, Đà Nẵng, số vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nhà xuất bản. Giáo dục, 1998. Tái bản 2 luận thi pháp học, Nhà xuất bản. Giáo dục, văn học văn, tập hợp những bài phân tích bình luận văn học trong nhà trường in trên báo và các sách, Nhà xuất bản. Giáo dục, Hà Nội, ngữ nghệ thuật thơ Đường của hai tác giả Mĩ gốc Hoa Cao Hữu Công và Mai Tổ Lân, dịch chung với Lê Tẩm, NXb Văn học, Hà Nội, học và thời gian, Nhà xuất bản. Văn học, 2002, tái bản năm sau, 2003. Tập hợp những bài viết về văn học và văn pháp Truyện Kiều, Nhà xuất bản. Giáo dục, 2002. Tái bản 8 lần, bổ sung xuất bản tại Nhà xuất bản. Đại học Sư phạm, Hà Nội, bài giảng mĩ học. Sách dịch của Lý Trạch Hậu, dịch chung, Nhà xuất bản. Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2004. Tái bản luận thi pháp học phiên bản thứ ba, Nhà xuất bản. Giáo dục, Hà Nội, 2004. Tái bản điển thuật ngữ văn học, đồng chủ biên. Về sau, Trần Đình Sử đã chỉnh lí toàn bộ, bổ sung, Nhà xuất bản. Giáo dục, 2004, tái bản nhiều trình Lí luận văn học, Tập 1 và tập 2, viết mới, Nhà xuất bản. Đại học Sư phạm Hà Nội, 2003 và 2004, tái bản nhiều sự học Một số vấn đề lịch sử và lí luận, Chủ biên, Nhà xuất bản. Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2003, tái bản 2007 và học so sánh, lịch sử và triển vọng, Chủ biên, Nhà xuất bản. Đại học Sư phạm Hà Nội, Đình Sử tuyển tập, hai tập, Nhà xuất bản. Giáo dục, Hà Nội, 2004, giáo khoa Trung học cơ sở, chủ biên phần làm văn 2003 đến naySách giáo Khoa Ngữ Văn, Trưởng nhóm soạn thảo chương trình, Tổng chủ biên bộ nâng cao 2003 -2006, sử dụng cho đến sự học, những vấn đề lịch sử và lí thuyết, tập 2, chủ biên, Nhà xuất bản. Đại học Sư phạm, Hà Nội, luận văn học, tập 2, Nhà xuất bản. Đại học Sư phạm, 2008. Tái bản nhiều tập nghiên cứu văn học, Nhà xuất bản. Hội nhà văn, nền Lí luận văn học hiện đại, nhìn qua thực tiễn Trung Quốc. Nhà xuất bản. Đại học Sư phạm, Hà Nội, đường biên của Lí luận văn học, Nhà xuất bản. Văn học, 2014. Tái bản 2015, Giải thưởng Hội nhà văn Hà Nội, hiệu học văn hoá, dịch chung với Lã Nguyên, Đỗ Hải Phong, Nhà xuất bản ĐHQG, sự học, lí huyết và ứng dụng, chủ biên, Nhà xuất bản. Giáo dục, Hà Nội, luận thi pháp học văn học phiên bản mới, Nhà xuất bản. Đại học Sư phạm, Hà Nội, ngữ văn và dạy học ngữ văn trong nhà trường phổ thông, Nhà xuất bản. Đại học Sư phạm, Hà Nội, văn học văn, bổ sung, Nhà xuất bản. Tri thức, luận và thi pháp văn học, Nhà xuất bản ĐHSP, Hà Nội, 2020. 652 trangCơ sở văn học so sánh, Giáo trình đại học, Nhà xuất bản ĐHSP, Hà Nội, 2020. 236 sử văn học Việt Nam chủ biên, Nhà xuất bản ĐHSP, 2021, 339 sự học- từ kinh điển đến hậu kinh điển sách tái bản chủ biên, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2022,528 các tập sách trên Trần Đình Sử còn viết, chủ biên trên 100 cuốn gồm sách giáo khoa, sách hướng dẫn giảng dạy, sách bài tập, sách hướng dẫn làm văn cho học sinh các lớp từ lớp 6 đến lớp 12, góp một phần đổi mới dạy học văn học, ngữ văn trong trường phổ cách, hướng nghiên cứuĐưa thi pháp học vào Việt Nam những năm 80, Trần Đình Sử đã đáp ứng nhu cầu đổi mới phương pháp tiếp cận văn học sau một thời gian dài đóng khung trong phương pháp xã hội học, thậm chí là dung tục, hướng mối quan tâm vào nghệ thuật. Thi pháp học của ông đã cung cấp một loạt khái niệm mới, thuật ngữ mới, đem đến những khả năng mới trong việc cảm thụ văn học, kích thích nhiều thế hệ người học, giúp họ tìm tòi, khám phá về văn học.[6]. Thực tế đã cho thấy, về sau, ở Việt Nam cũng đã bắt đầu xuất hiện nhiều khuynh hướng phê bình khác nhau song phê bình thi pháp vẫn chiếm một vị trí quan trọng bởi nó gắn với bản chất nghệ thuật của văn thuyết thi pháp học Trần Đình Sử là một phiên bản Việt Nam. Nó không sao chép một lí thuyết nào mà là một sự tổng hợp, hệ thống hoá của tác giả qua nhiều thời gian nghiên cứu, thể nghiệm[7].Với những nghiên cứu của Trần Đình Sử, ông đã chấm dứt sự phân lập nội dung và hình thức trong nghiên cứu văn học. Ở đây, hình thức mang quan niệm và qua hình thức để khám phá nội dung, không có chuyện phát hiện nội dung rồi mới đi tìm hình việc phiên dịch, giới thiệu, vận dụng lí thuyết văn học nước ngoài Nga, Trần Đình Sử đã góp phần đưa vào đời sống phê bình, lí luận những khái niệm mới hoặc với nội hàm mới như thi pháp, thế giới nghệ thuật, không gian, thời gian nghệ thuật, các loại hình nội dung thể loại sử thi, thế sự, đời tư, thơ điệu nói… Ông đã đem vào nghiên cứu một lối viết khác hẳn lối phê bình thơ mà Hoài Thanh đề xướng. Đó là việc đi tìm những dẫn chứng, lập luận thể hiện sự lặp lại trong tư duy nghệ thuật của nhà văn,từ đó chỉ ra đặc trưng nghệ thuật, phong cách. Lối phân tích phẩm bình thơ văn của Trần Đình Sử cũng có nét riêng không lẫn với cách làm của các tác giả khác. Nó hoàn toàn thoát khỏi lối trích dẫn những câu hay để bình, tán trong nghiên cứu văn thưởngGiải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1997 cho cuốn sách Lí luận và phê bình văn học. Nhà xuất bản. Hội nhà văn, 1996.Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ năm 2000 cho cụm công trình Thi pháp học, gồm các công trình Thi pháp thơ Tố Hữu Nhà xuất bản. Tác phẩm mới, H., 1987, '’Lí luận và phê bình văn học Nhà xuất bản. Hội nhà văn H., 1996, Những thế giới nghệ thuật thơ Nhà xuất bản. Giáo dục, H., 1995, Dẫn luận thi pháp học Nhà xuất bản. Giáo dục, H., 1998.Giải thưởng Hội nhà văn Hà Nội năm 2015 cho cuốn sách Trên đường biên của Lí luận văn học, Nhà xuất bản. Văn học, 2014.Ông nhận Giải thưởng Văn hóa Phan Châu Trinh lần thứ X, năm 2017, vì những đóng góp to lớn và lâu dài trong lĩnh vực nghiên cứu văn thích^ Nguyễn Đăng Điệp. “Con đường khoa học của Trần Đình Sử”, in trong Trần Đình Sử tuyển tập, tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục, 2004^ 1194 nhà giáo được phong tặng danh hiệu NGND, NGƯT năm 2010^ Lã Nguyên, “Trần Đình Sử và hướng nghiên cứu Thi pháp học.^ Cao Kim Lan. “Tự sự học và thực tiễn tiếp nhận ở Việt Nam, Tạp chí Lí luận Văn học Nghệ thuật Trung ương, số 9/2018.^ Trần Đình Sử tuyển tập, tập 1&2, Nhà xuất bản. Giáo dục, Hà Nội 2004, 2005^ [Trần Đình Sử. Dẫn luận Thi pháp văn học. Nhà Xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội, tái bản 2017.]^ Lã Nguyên, “Thi pháp Truyện Kiều của Trần Đình Sử và giới hạn của những cách đọc”Liên kết ngoàiTrần Đình SửTrần Đình SửThi pháp Truyện Kiều của Trần Đình Sử và giới hạn của những cách đọcTrên đường biên của lý luận văn học Lưu trữ 2019-02-14 tại Wayback MachineTrần Đình Sử, tại sao?Trần Đình Sử và hướng nghiên cứu thi pháp học
Trần Đình Sử sinh ngày 10 tháng 8 năm 1940 là một giáo sư, tiến sĩ lý luận văn học, Nhà giáo Nhân dân, giảng viên Đại học Sư phạm Vinh, Đại học Sư phạm Hà Nội và một số trường đại học khác ở Việt Nam. Ông là một trong những nhà lí luận văn học hàng đầu của Việt Nam và có nhiều đóng góp trong việc làm thay đổi diện mạo nền lí luận, phê bình văn học của Việt Nam những năm cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI[1]. Giáo sư Trần Đình Sử được phong danh hiệu Nhà giáo Ưu tú năm 2002, Nhà giáo Nhân dân năm 2010[2], được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng Huân chương Kháng chiến chống Mĩ hạng Ba, Huân chương Lao động hạng Nhì, Huy chương Vì sự nghiệp giáo dục. Trần Đình Sử là người có vốn kiến văn rộng, bao quát một khối lượng tri thức thuộc nhiều lĩnh vực, am hiểu văn học, văn hóa Việt Nam. Đóng góp lớn nhất trong sự nghiệp nghiên cứu và giảng dạy của ông tập trung vào hai lĩnh vực chính là lí thuyết và nghiên cứu văn học Việt Nam. Trong đó ở mảng lí thuyết, tập trung chủ yếu ở lĩnh vực thi pháp học[3] và tự sự học[4].
VỚI KÍ HIỆU HỌC VÀ THI PHÁP HỌC Hoàng Trinh là bút danh của giáo sư, viện sĩ Hồ Tôn Trinh, sinh năm 1920, quê ở Thạch Hà, Hà Tĩnh. Trước 1945 ông có bằng tú tài, từ trong kháng chiến chống Pháp cho đến sau hòa bình lập lại 1954 ông liên tục làm cán bộ tuyên huấn, cho mãi đến năm 1959, khi thành lập Viện văn học, được phái về làm nghiên cứu văn học. Gần 40 tuổi ông mới gia nhập giới nghiên cứu, trở thành nhà phê bình văn học macxit Việt Nam. Năm ấy khi thành lập Viện văn học ông phụ trách nghiên cứu văn học phương Tây. Ông từng làm Viện phó, rồi viện trưởng Viện văn học, từng phụ trách chỉ đạo biên soạn các mục từ về khoa học xã hội và nhân văn cho Từ điển Bách khoa Việt Nam. Ông thường tham dự các hội thảo khoa học ở nước ngoài, được kết nạp làm Hội viên hội kí hiệu học quốc tế, được bầu làm viện sĩ danh dự Viện Hàn lâm khoa học Hunggari. Suốt thời gian 10 năm ở Viện văn học ông cũng có viết nhiều bài vở nhưng ít gây được ấn tượng. Từ năm 1969, khi ông công bố tập sách Phương Tây, văn học và con người, tập1, rồi đến năm 1971 ra tiếp tập 2, một công trình tương đối quy mô về văn học phương Tây đương đại, ông mới được chú ý. Trong sách ấy ông đề cập đến từ bóng đen của chủ nghĩa đế quốc đến chủ nghĩa hiện sinh, phê phán Camus và văn học nổi loạn, phê phán tiểu thuyết về thân phận con người, tiểu thuyết và thời gian, phê phán Kafka và huyền thoại. Người ta chú ý đến đề tài văn học và con người của ông, nó có nội dung triết học. Đây là bộ sách phê phán các quan niệm văn học tư sản được coi là đồi truỵ, bế tắc của phương Tây mà các đô thị miền Nam đang tiếp nhận, do đó nó cũng có ý định gián tiếp hướng tới đấu tranh chống văn hoá thực dân mới ở miền Nam Việt Nam, thể hiện nhiệt tình chiến đấu của người chiến sĩ văn hoá, nhưng cách viết tỏ ra có sự hiểu biết về con người của một thế giới khác. Trong sách ở lần xuất bản đầu tiên có nhiều lời phê phán nặng nề mà sau này khi tái bản ở nhà xuất bản Hội nhà văn Việt Nam năm 1991 ông đã bỏ bớt cho thích hợp. Các học giả sành tiếng Pháp như Huỳnh Lý, Trương Chính có ý chê một số câu chữ tiếng Pháp mà ông dịch chưa thông, chưa thoát, và tỏ ý chưa tin vào học thuật của ông. Trong bản in của Tuyển tập văn học của ông vẫn còn rất nhiều lỗi về biên tập. Có một điều thú vị là mặc dù ông phê phán văn học phương Tây, nhưng ông lại dần dần chuyển sang nghiên cứu lí luận văn học phương Tây như kí hiệu học và thi pháp học, trở thành bạn hữu với một số học giả phương Tây như Thomas Albert Sebeok, nhà kí hiệu học Mĩ, gốc Hungari, sinh năm 1920, đồng tuế với ông. Và có lẽ cũng chính ông này kết nạp Hoàng Trinh vào Hiệp hôi kí hiệu học quốc tế và tạo điều kiện cho ông, tức là đưa giấy mời để ông có cơ hội tham dự và đọc các báo cáo về thơ ca Việt Nam trên diễn đàn kí hiệu học quốc tế. Sau này vào những năm 80, tôi nhiều lần đến chơi nhà ông ở Viện văn học ông có cho biết về mối quan hệ ấy. Ngoài việc phê phán văn học phương Tây hiện đại, Hoàng Trinh cũng phê phán chủ nghĩa cấu trúc, kí hiệu học, phê phán phê bình mới. Nhưng lạ thay, trong khi tìm hiểu sâu các lí thuyết cần phải phê phán, thì Hoàng Trinh đã bị các lí thuyết kia thuyết phục và từng bước tư duy theo các lí thuyết ấy. Sự phê phán của tác giả chẳng qua là nêu các mệnh đề có tính khẩu hiệu, quy chụp, nào duy tâm, siêu hình, phản lịch sử, nào phủ nhận hiện thực, phủ nhận bản chất, và khẳng định chủ nghĩa Mác Lê là học thuyết duy nhất đúng đắn. Nói một cách khác nhà lí luận của chúng ta không đủ vũ khí để đánh gục đối tượng cần phê phán, mà ngược lại bị nó chinh phục. Mà đúng thật, những cán bộ tuyên huấn thiên về tư duy chính trị, mới đọc thông tiếng Pháp, làm quen với các khái niệm triết học kiểu phương Tây, thì khó mà phê phán được các lí thuyết của các đầu óc hơn người của nhân loại của thế kỉ, làm sao mà chỉ ra được những chỗ phi lí, sai logic, thiếu căn cứ để đánh đổ nó được. Cùng lắm là chỉ ra được nó khác với hoặc là phản lại triết học Mác Lê mà thôi. Mà nhận ra sự khác biệt hay phản lại thì không phải là phê phán. Người ta chỉ phê phán được khi nào vạch ra những sai lầm trong nguyên lí của học thuyết bị phê phán khiến cho nó sụp đổ. Ngược lại sự bị thuyết phục của các nhà mác xít của ta chứng tỏ một sự tiến bộ đáng mừng. Do đó sau khi “phê phán” Hoàng Trinh đã ngả về phía của lí thuyết mà ông phê phán kia, và bắt đầu nghiên cứu kí hiệu học và chủ nghĩa cấu trúc của Saussure và Jakobson. Ông cho biết đã bắt đầu nghiên cứu kí hiêu học từ năm 1970. Năm 1980 ông công bố công trình Kí hiệu, nghĩa và phê bình văn học. Phần lớn các bài trong tập này viết vào giữa những năm 70 và đăng trên tạp chí Học Tập của Đảng cộng sản Việt Nam và Tạp chí văn học. Trong sách này tác giả cũng “phê phán” chủ nghĩa cấu trúc ở những điểm râu ria, nhưng căn bản thì khẳng định nó là đúng và cần vận dụng. Ông viết “Kí hiệu học có nhiều phát hiện và đóng góp quan trọng trong việc tìm hiểu các loại hệ thống kí hiệu được xem như những hệ thống thông báo và hệ thống tạo nghĩa. Nó giúp cho người ta hiểu thêm cấu trúc hình thức, ngọn nguồn sự hình thành và công dụng của các loại hình ngôn ngữ xuất hiện và phát triển trong đời sống xã hội và đời sống văn hoá của con người. Từ sự đối lập và thống nhất giữa hai mặt của kí hiệu ngôn ngữ do Saussure khám phá ra, kí hiệu học sẽ dẫn người ta đến thế giới phức tạp và thú vị của các hệ thống thông báo, nhìn thấy rõ sự xâm nhập và sự chuyển hoá giữa các hệ thống, tạo thành hệ thống hàm nghĩa système conotatif, hệ thống siêu ngôn ngữ système métalangage, hai hệ thống rất quan trọng thể hiện ra ở trong nhiều lĩnh vực của văn hoá và khoa học văn học, sân khấu, điện ảnh, thông tin, các khoa học xã hội và tự nhiên”[1], “Với những khám phá của nó, kí hiệu học vận dụng vào phê bình văn học có thể đem lại những kết quả tốt. Nó là một môn học có tác dụng giúp chúng ta tìm hiểu ngôn ngữ của tác phẩm và từ đó tìm hiểu nội dung và hình thưc của tác phẩm”[2]. Từ năm 1974 Hoàng Trinh đã đăng liên tiếp trên Tạp chí Tác phẩm mới của Hội nhà văn loạt bài nhan đề Vấn đề kí hiệu và thông tin trong văn học, nghệ thuật, giới thiệu kí hiệu học, khái niệm kí hiệu của Peirce 1839 – 1914 , khái niệm cái biểu đạt và cái được biểu đạt của Saussure 1857 – 1913, quan hệ võ đoán của nó, tính đa nghĩa của ngôn từ, mô hình giáo tiếp của R. Jakobson 1896 – 1982, thông tin và độ dư của thông tin. Nhưng quan điểm của Hoàng Trinh rất hạn chế. Ông chỉ biết một quan điểm của Saussure, rằng kí hiệu có cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Ông giới thiệu kí hiệu ba thành phần của Peirce, cái biểu đạt của Saussure thì Peirce gọi bằng thể biểu hiện, còn cái được biểu đạt thì Peirce chia làm hai thành phần một là đối tượng được chỉ ra và hai là sự giải thích về đối tượng ấy. Trên thực tế kí hiệu không chỉ chỉ ra sự vật, đối tượng mà còn gợi ra sự giải thích về đối tượng ấy nữa. Phần lớn các nhà kí hiệu học ngày nay đi theo hướng của Peirce, chứ không phải của Saussure, nhưng Hoàng Trinh đã phê Peirce “Nhưng quan điểm của Peirce là quan điểm duy tâm và hình thức chủ nghĩa cực đoan. Đối với ông, cái gì cũng là kí hiệu, “toán, luân lí, siêu hình học, thiên văn học, tâm lí học, …, đàn ông, đàn bà, , rượu vang…” đều phải được xem xét, nghiên cứu như những kí hiệu. Cả thế giới là một thế giới kí hiệu, cái này là kí hiệu của cái kia, kí hiệu này là kí hiệu của kí hiệu kia…ngôn ngữ đối với Peirce cũng chỉ là một thế giới tượng trưng, ước lệ đơn thuần”[3] Ngày nay ai cũng biết, kí hiệu này đòi hỏi giải thích bằng một kí hiệu khác, khi tìm nghĩa của một cái biểu đạt này trong từ điển, ta được một chuỗi cái biểu đạt khác, mà chưa đến được với cái được biểu đạt, cái biểu đạt và cái được biẻu đạt bị tách rời, và như vậy dẫn đến lập luận của lí thuyết giải cấu trúc. Rõ ràng Hoàng Trinh dừng lại trước giải cấu trúc luận, ông chỉ biết chủ nghĩa cấu trúc mà thôi và ông đã không hiểu được nhà triết học Mĩ. Vấn đề thế giới biến thành kí hiệu đã được E. Cassirere giải thích trong sách Bàn về con người. Trên thực tế con người không thể đối diện trực tiếp với thế giới, mà bị gián cách bới cả thế giới kí hiệu vây bọc xung quanh. Những chỗ nhầm lẫn như vậy còn có thể tìm thấy trong sách của ông. Điều thú vị là khi vận dụng kí hiệu học để giải thích câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn” thì ông bắt gặp kí hiệu ba thành phần của Peirce. Ngoài âm thanh và nghĩa đen, uống nước được hiểu là “hưởng”, nhớ có nghĩa là “nhớ ơn”, “báo đáp”, nguồn có nghiã là “người đi trước”, “kẻ làm ra”. Từ đó mà thấy qúa trình nghĩa tạo ra nghĩa trong tục ngữ. Cái vướng của Hoàng Trinh là vấn đề “tại sao kí hiệu có tính ước lệ mà phản ánh được hiện thực?” Và phải “chống lại những kẻ lợi dụng kí hiệu học để bác bỏ chủ nghĩa hiện thực”. Đối với vấn đề kí hiệu của văn học, Hoàng Trinh chưa đi đến cùng. Chẳng hạn, theo kí hiệu học thì phải đi tìm ngôn ngữ của văn học, nhưng qua các công trình không thấy ông đi tìm ngôn ngữ này. Theo kí hiệu học thì cần xem xét hình tượng văn học, các nhân vật, chuỗi sự kiện, chi tiết, truyện kể có phải là kí hiệu không? Năm 1976 M. Khrapchenco xuất bản sách Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con người Việt Nam dịch in tại Nxb KHXH năm 1986, đã có bài tiểu luận dài bàn về tính kí hiệu của văn học. Ông chỉ thừa nhận các chi tiết văn học có tính kí hiệu, nhưng không thừa nhận nhân vật, hình tượng nghệ thuật là kí hiệu, mà xem chúng là các hình thức khái quát chân lí. Nhưng quan điểm này đã bị vượt qua, bởi ví dụ, các nhân vật trong ngụ ngôn, dụ ngôn, cổ tích là kí hiệu; nhân vật Thúy Kiều là một cái biểu đạt đa nghĩa, có thể biểu hiện phận đàn bà, có thể biểu hiện kẻ tài tình, lại vừa biểu hiện “làm người có thân”, tư tưởng tài mệnh tương đố. Đó không phải là khái quát đơn nghĩa theo kiểu phản ánh hiện thực. Điều này cho thấy các nhà lí thuyết mác xít không muốn nhìn nhận hình tượng là kí hiệu, vì không thừa nhận quan hệ hình tượng và ý nghĩa của nó có thể là võ đoán. Mặc dù có phần hạn chế như thế, nhưng từ giữa những năm 70 thế kỉ trước Hoàng Trinh là người đã có ý thức, có thể là người sớm nhất ở miền Bắc, giới thiệu một cách khá hệ thống một số khái niệm cơ bản của kí hiệu học cấu trúc vào Việt Nam. Ở miền Nam, Nguyễn Văn Trung 1963, Trần Thiện Đạo 1967 đã giới thiệu kí hiệu học từ những năm 60. Rất có thể Phan Ngọc đã tiếp cận phương pháp cấu trúc từ những năm 60, nhưng do gặp khó trong vụ Nhân văn Giai phẩm mà ông không dám để lộ phương pháp của mình. Việc giới thiệu của Hoàng Trinh có ý nghĩa quan trọng đối với khoa học nhân văn Việt Nam. Ai cũng biết ở Việt Nam người ta chỉ có tin người chứ không tin khoa học. Hoàng Trinh do là cán bộ tuyên huấn, cho nên được tin hơn khi ông bàn những chuyện khó nói. Sự ra đời các công trình kí hiệu học của Hoàng Trinh tạo thuận lợi cho việc truyền bá các học thuyết lí luận, mĩ học phương Tây vào Việt Nam như thi pháp, văn học so sánh, tiếp nhận văn học…Và biết đâu, chính tư tưởng kí hiệu học ấy đã tạo không khí để cho tạp chí Văn học tiếp nhận bài viết của tôi về thời gian nghệ thuật năm 1981, 1982. Hồi đó tôi ghé thăm ông, ông cho biết ông không chỉ đăng bài, mà còn đã giảng dạy kí hiệu học cho các bạn trẻ ở Viện. Ông cũng đã mời tôi đến trình bày hai buổi về thi pháp học cho các bạn trẻ của Viện. Nhưng khi ông đặt vấn đề “Nghiên cứu kí hiệu dưới ánh sáng của phản ánh luận của Mác Lenin và chủ nghĩa duy vật biện chứng để làm sáng tỏ hơn quy luật tạo nghĩa bên trong các hệ thống kí hiệu, trong đó có môn ngữ văn học”, “khai thác kí hiệu học theo quan điểm Mác Lenin”[4] thì ông dã làm khó cho người nghiên cứu, bởi vì phản ánh luận ngay từ đầu đã phản đối kí hiệu mà chỉ quan tâm vật tác động vào cảm giác để lại hình ảnh sao chép như thật, mà không chấp nhận bất cứ ước lệ nào, đừng nói tới kí hiệu, biểu trưng. Mà nghĩa chỉ có trong quan hệ chủ thể đối với đối tượng, đối tượng chỉ có nghĩa đối với chủ thể. Tạo nghĩa là nghĩa này gợi nghĩa kia, liên tưởng nghĩa này với nghĩa nọ, sợ rằng đó là hành vi chủ quan duy tâm siêu hình. Người ta có thể liên tưởng tới tương lai hay tới quá khứ, là những thứ không hiện hữu, mà đã không hiện hữu thì không tác động giác quan và không thể phản ánh được. Ông nêu một trong các vấn đề nghiên cứu là “Cái gọi là tính xã hội, tính ước lệ trong kí hiệu nằm ở chỗ nào? Vì sao ước lệ mà vẫn phản ánh được hiện thực, nghĩa là vẫn có giá trị hiện thực?”[5] Các câu hỏi đó không khó trả lời, bởi vấn đề chân lí của nhận thức và vấn đề kí hiệu để lưu giữ và truyền đạt thông tin là các vấn đề ở các bình diện khác nhau, nhưng không tách rời nhau. Song tham vọng xây dựng một kí hiệu học mác xít- lêninit có lẽ không dễ thực hiện. Vậy thi pháp học của Hoàng Trinh thì như thế nào? Là một người đọc sách Tây Hoàng Trinh hiểu thi pháp chính là lí luận văn học. Nhưng ông chỉ hiểu thi pháp học là lí thuyết về thơ, giống như R. Jakobson, lí thuyết về một thể loại theo nghĩa cổ xưa nhất, chứ không theo nghĩa rộng là thi pháp văn học nói chung. Theo ông, thi pháp thơ bao gồm bốn yếu tố. Một là trả lời câu hỏi thơ là gì. Hai là cho biết làm thế nào để sáng tạo ra thơ, cụ thể là tổ chức ngôn từ thế nào để nó trở thành thơ. Ba là nghiên cứu kết cấu của thơ. Kết cấu không gian, kết cấu thời gian. Nó là ngôi nhà của thơ. Bốn là âm vận của thơ[6]. Có thể nói đó là một quan niệm quá ư hạn hẹp và sơ sài. Ví dụ ông hiểu bất cứ ai có quan niệm hoặc cách hiểu về thơ đó đều là nhà thi pháp, thì là giản đơn quá và bình thường quá. Bảo một nhà thơ có mấy câu nói về thơ cũng là nhà thi pháp, hẳn nhà thơ kia cũng ngại. Để thể hiện ý tưởng từ kí hiệu học đến thi pháp học ông lần lượt trình ra hai vấn đề. Một là các bình diện của kí hiệu sau này dùng để hiểu thơ. Đó là khái niệm kí hiệu, tính đa nghĩa của từ và cách tạo nghĩa. Tính thơ và thông báo, hình thức và chất thể của kí hiệu, ngôn ngữ, lời, ngôn từ, từ, văn bản, các mã, mã thẩm mĩ. Trong mục cuối cùng tác giả trình bày các phép tu từ của thi ca. Phần thi pháp của tác giả là cách đọc thơ theo thi pháp học dựa vào lí thuyết kí hiệu học. Trong các chương này có nhiều tri thức và nhiều ví dụ bổ ích đối với những ai chịu khó đọc. Đang nói về thi pháp học như là lí thuyết về thơ với bốn nội dung như trên thì đến đây ông chuyển sang vấn đề đọc thơ. Đọc cũng là một vấn đề thi pháp học song không được bao hàm trong bốn vấn đề nêu trên, gây cảm giác hẩng hụt và ngỡ ngàng. Nhưng đi vào nội dung thì lại gặp đặc trưng của ngôn ngữ thơ, mà không phải là đọc. Ông trình bày sơ lược những vấn đề mới như nghĩa nội hàm, siêu ngôn ngữ, cũng khá bổ ích và cuối cùng là đọc thơ theo kí hiệu học. Sau phần Đọc thơ là đọc ca dao, đọc tục ngữ. Nhìn chung cách đọc của Hoàng Trinh là phân tích hình ảnh thơ theo sơ đồ kí hiệu học, CBĐ chuyển hoá thành CBĐ mới với CĐBĐ mới, cứ thế mà tăng tiến thêm, tạo thành nghĩa mới. Cách đọc của ông theo tôi có thể giúp cho các giáo viên ngữ văn có thể hình dung được sự tạo nghĩa trong khi tạo thành các câu thơ. Nói chung đó chưa phải là đọc tác phẩm theo kí hiệu học. Bởi kí hiệu học quan niệm rằng tác phẩm văn học tự kiến tạo mình thành một hệ thống kí hiệu có tính cá nhân, một ngôn ngữ cá thể. Người đọc phải kiến tạo lại ngôn ngữ nghệ thuật ấy thì mới thật sự hiểu được thông báo của tác giả. Cách đọc tục ngữ và ca dao nhằm chứng minh chất thơ của chúng là đi vào một cánh cửa đã mở sẵn. Còn chứng minh tục ngữ cũng có chất thơ, tuy hợp với quan niệm của R. Jakobson, nhưng lại không đúng với thực tế, vì tục ngữ không phải là thơ. Nhìn lại các công trình lí thuyết kí hiệu học và thi pháp học của Hoàng Trinh, ta thấy, muốn hiểu sâu được kí hiệu học thì phải hiểu về ngôn ngữ học. Kí hiệu học là một bộ môn đang phát triển. Thi pháp học cũng thế. Cho nên những cố gắng của giáo sư Hoàng Trinh là rất đáng trân trọng, bởi vì, đối với vấn đề có tính cấu trúc luận này trong xã hội ta đã từng có định kiến, nay giới thiệu như vậy sẽ có tác dụng khắc phục định kiến, để cho ai đi theo hướng này bớt bị dị nghị. Hai là trong các công trình của mình, Hoàng Trinh đã cố gắng giới thiệu những vấn đề, khái niệm cơ bản nhất của kí hiệu học, góp phần phổ biến nó. Ba là tác giả đã cố gắng viết cho dễ hiểu, bằng các ví dụ lấy từ thơ ca, ca dao, tục ngữ Việt Nam, và như thế sẽ giúp ích cho người mới học dễ làm quen. Ai đã làm học thuật ở Việt Nam dưới chế độ mới sẽ cảm thấy có nhiều khó khăn, nhất là những tư tưởng không hợp thời hoặc còn lạ lẫm. Nhà lí luận Hoàng Trinh từ một nhà tuyên huấn, một chiến sĩ đấu tranh chống học thuật tư sản, biết rõ mọi khó khăn, nhưng ông đã nhận ra những thiếu hụt của học thuật nước nhà và tìm cách bổ khuyết. Và ông đã cố gắng làm được những khởi động bước đầu rất đáng quý. Ông không phải là nhà kí hiệu học đầu tiên ở Việt Nam, càng chưa phải người cuối cùng, cho dù còn mới và sơ lược, ông vẫn vẫn là một nhà kí hiệu học Việt Nam có công lao đáng được ghi nhận, và công trình của ông vẫn có giá trị gợi mở. Hà Nội, 20 – 7- 2020 [1] Hoàng Trinh. Tuyển tập văn học, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 1998, tr. 174 – 175. [2] Hoàng Trinh. Tldd, tr. 176. [3] Hoàng Trinh, Tldd, tr. 186 – 187. [4] Hoàng Trinh, Tldd, tr. 200. [5] Hoàng Trinh, Tldd, tr. 194. [6] Hoàng Trinh, Tldd, tr. 444.
Các giới hạn của nghịch dị D. Nicolaev Các vấn đề văn học, số 4 năm 1968 Trần Đình Sử lược dịch Sau khi có luận án của M. Bakhtin bàn về “chủ nghĩa hiện thực nghịch dị” giới lí luận Liên xô bắt đầu chú ý tới biện pháp nghệ thuật này. Trước đó người ta xem nghịch dị là một cái gì duy tâm, siêu hình. Sau 1925 Nedoshivin lần đầu chú ý tới nó, khẳng định vai trò của nó đối với chủ nghĩa hiện thực. Nó là hình thức phóng đại, khoa trương để biểu hiện hiện thực. Đây là quan điểm thời đó, luôn xem nghệ thuật là sự phản ánh hiện thực. Thuật ngữ nghịch dị grotesque xuất hiện ở Ý vào cuối thế kỉ XV, Đầu tiên nó được dùng để chỉ các loại đồ án trang trí, cấu tạo bằng cách miêu tả kết hợp một cách kì dị các hình ảnh thú vật, thực vật và con người. Nhưng nghịch dị tồn tại trong nghệ thuật thì đã có từ lâu. M. Bakhtin trong Sáng tác Francoise Rabelaise và văn hoá Phục hưng và trung cổ M. 1965 đã viết Kiểu hình tương nghịch dị tức là một phương thức cấu tạo hình tượng là một kiểu cổ xưa nhất mà ta thường gặp trong thần thoại, trong nghệ thuật phỏng cổ của các dân tộc, trong đó có cả nghệ thuật tiền cổ điển của người Hy Lạp và La Mã cổ đại”. . Trong các nghệ thuật khác nhau nghịch dị đóng vai trò khác nhau. Từ các hiện tương đó có thể xác định nghịch dị là một nguyên tắc miêu tả hiện thực trong đó kết hợp một cách nhân tạo các sự vật thuộc các loại sinh vật khác nhau, phá vỡ sự giống như thật của mô phỏng đời sống, kết hợp những cái không thể kết hợp được.. Chỉ có một tiêu chí như thế thì ta mới có thể xác định dược tác phẩm nào là thuộc phạm trù nghịch dị và tác phẩm nào không phải.. Nghịch dị khác biệt với các phương thức cấu tạo hình tượng khác.. Chẳng hạn phân biệt với các loại cường điệu, khoa trương, mài sắc, nghịch lí, kì ảo, phi lí, hóm hỉnh. Chẳng hạn nhật kí người điên là nghịch lí chứ không phải là nghịch dị. Ghec sen có câu chuyện Bác sĩ Krupop phân biệt người điên và người thường, chỉ là nghịch lí, không phải nghịch dị. Nghịch lí là hiện tượng thuộc về logich, mới trông thì giống thật mà lại sai, hoặc mới thấy nhìn tưởng là sai mà thực ra là đúng.. Nghịch lí là làm cho gần gủi những cái vốn xa nhau, hoặc làm cho xa nhau những cái vốn là gần gủi.. Nghịch lí và Nghịch dị đều là biện pháp thể hiện hiện thực, nhưng khác nhau ở chỗ, nghịch lí tạo ra phối cảnh bất ngờ, đối với các sự vật bình thường nhưng thực chất không thủ tiêu tính bình thường của nó. Nghịch dị đi xa hơn. cấu tạo lại cái bình thường thành một cái dị thường, khác thường, đến mức không còn có tính bình thường nữa, trở thành kì quặc, cổ quái. Nghịch dị không chỉ đòi hỏi một cái nhìn bất ngờ đối với sự vật xung quanh, mà còn cải tạo lại hiện thực theo những kết hợp mà thực tế không thể có được. Nghịch dị và kì ảo. Nhà điện ảnh Nga Eyzenstein đặt câu hỏi Sức hấp dẫn của nghịch dị nằm ở đâu? Và trả lời Nó nằm ở chỗ không thể kết hợp được của các loại. Lại hỏi Nội dung chủ yếu của nghịch dị là gì? Và trả lời là sự kết hợp của những cái không thể kết hợp, hiện thực và kì ảo, sự lai ghép hai sự vật đối lập nhau. Chẳng hạn truyện Cái chậu vàng của Hoffman nữ nhân vật là người bán táo, nhưng đồng thời mụ là con quỷ. Nhân vật Ligorst trong đó là ông già giữ hồ sơ, nhưng ban đêm ông ta là một con ma trơi. Các kết hợp giữa hiện thực và kì ảo tạo ra tính đặc thù của nghich dị Xem Vấn đề văn học, số 1 năm 1968, tr. 106. Như vậy nghịch dị bao hàm cả kì ảo, nhưng không phải mọi kì ảo là nghịch dị. Ví dụ tiểu thuyết viễn tưởng là kì ảo, song không phải nghich dị. Nếu vào thời hiện đại mà ta bắt gặp một ông già cổ đại như ông Khottabit hay trên đường phố ta gặp người đàn bà lân tinh như của Maiakovski thì đó là nghịch dị, chứ không phải kì ảo. Vì ở đó kết hợp các không gian, thời gian không thể kết hợp nhau được. Như vậy nghịch dị là những sự kết hợp phi hiện thực. Về chức năng của nghịch dị so với các hình thức nghệ thuật ước lệ. Nedoshivin cho rằng nghịch dị là hình thức cực đoan nhất của các thủ pháp ước lệ. Quan niệm này rất phổ biến. Có ý kiến ngược lại, xem nghịch dị là một hình thức ngụ ý nói khác để phản ánh hiện thực ví dụ tranh cổ động miêu tả chú Sam với cái đầu là một quả bom. Trong văn học nghịch dị là hình thức cường điệu châm biếm. Ví dụ trong một phim hài của Charli Chaplin, người đào vàng đói quá đã đem nấu đôi giày để ăn. Anh ta ung dung mang khăn ăn, dùng cái nỉa quấn cái dây giày, chấm vào nước chấm để ăn, rồi dùng dao cắt từng miếng da giày, cuối cùng mút từng cái đinh giày như mút cái xương cá. Nhân vật Kovaliop của Gogol bị mất cái mũi là một mẫu mực của nghịch dị. Ju. Mann gọi đó là một giả thiết kì ảo. thường gặp trong văn học.. Ở đây cái kì ảo khám phá bản chất của con người mà trước đó bị che giấu. Trong vở kịch Cái bóng của E. Shvarez cái bóng từ giả con người mà đi và tồn tại độc lập. Đây cũng là giả thiết kì ảo. con cái bóng là một ẩn dụ. đại diện các lực lương đen tối và phản bội. Nó là một nghịch dị ngụ ý. Theo Ju. Mann thì nghịch dị là một hình thức đặc thù của ẩn dụ, nói theo một nghĩa khác, kiểu như thần công lí tay cầm cái cân, nhưng hai mắt bị bịt kín Bàn về nghịch dị trong văn học, Mascova, 1966, tr. 98 – 99. Ý này có thể không hoàn toàn đứng. Trước đây Lessing từng nói ngụ ý, phúng dụ allegoriemâu thuẫn với bản chất của nghệ thuật, vì nó không sáng tạo. Diderot cũng từng nói Bao giờ tôi cũng cho rằng phúng dụ là sản phẩm của một trí tuệ non kém, bất lực, không đủ sức làm phong phú mình bằng thực tại. Nhưng ở đây các tác giả chống lại phúng dụ của chủ nghĩa cổ điển. Vẫn có nhà văn nói ngược lại nhà văn Nga Korolenco nói với M. Gorki rằng Nếu allegorie mà hóm hỉnh thì rất hay chứ. Gorki cho rằng allegorie có thể chứa đựng những tư tưởng lớn lao. Vậy nghịch dị khác với phúng dụ nhưng không mâu thuẫn với nó, ngược lại chúng có thể kết hợp khăng khít với nhau. Nghịch dị kết hợp trong hình tượng hai hiện tượng không thể kết hợp được với nhau, ví như con lừa mang đầu người hay chim ưng mang đầu người hay ngược lại người mang đầu chim ưng. Phúng dụ chỉ là thay cái này bằng cái khác, con nghịch dị thi cái khác nhau là một thực tại mới. Cho nên không nên lẫn lộn. Kaizer thì cho rằng nghịch dị là một thế giới xa lạ, tả một sức mạnh xa lạ với con người và với tự nhiên, như là tự nó vốn thế. Cần thấy sự đa dạng của nghịch dị trong lịch sử văn học và trong các nghệ thuật cũng như trong các thể loại khác nhau. Có thể bản chất của nghịch dị là một sự song trùng luôn chứa đựng mâu thuẫn, thực hiện các chức năng của nghịch dị có thể là châm biếm, hài hước, bi kịch. Nghệ thuật nghịch dị đập tan tính như thật của phản ánh đời sống, cho phép sáng tạo tự do và đa dạng.
Lê Lưu Oanh GS. Trần Đình Sử không chỉ là nhà Thi pháp học như mọi người thường ghi nhận mà ông thực sự là một nhà Lý luận văn học. Người ta nghĩ ông là nhà Thi pháp học cũng bởi vì những công trình về thi pháp học của ông quá nổi tiếng. Ông đã kiên cường nỗ lực nghiên cứu trên các phương diện thi pháp tác giả, thi pháp giai đoạn văn học, thi pháp tác phẩm và hệ thống các khái niệm và phương thức nghiên cứu thi pháp, để ra đời bộ tứ đồ sộ Thi pháp thơ Tố Hữu 1987, Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam 1999, Thi pháp Truyện Kiều 2002 và Dẫn luận Thi pháp học 1998, 2017, in đi in lại nhiều lần. Thi pháp học, thực sự là một con đường mới, một hướng đi mới đã gây nên ở Việt Nam một cơn sốt nghiên cứu văn học theo hướng thi pháp học, rầm rộ suốt thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Nhưng bên cạnh đó, còn một hướng đi âm thầm và bền bỉ kéo dài gần 60 năm, tính từ khi ông bắt đầu giảng dạy Lí luận văn học LLVH ở Đại học năm 1966, đến tận hôm nay, 2020, một con đường đi gập ghềnh, đầy khó khăn. Khó vì đã có những quan điểm chỉ đạo trong một số văn kiện, sách báo mang tính định hướng của các cơ quan chủ quản thuộc nhà nước về những vấn đề LLVH, khó vì đã có những những vấn đề LLVH rất cơ bản nhưng đã được cố định hóa, chương trình hóa, dù còn khá sơ lược theo kiểu cơ sở, đại cương trong các Giáo trình LLVH hệ Đại học. Những vấn đề LLVH ấy, dù là những nguyên lí cơ bản mang tính đại cương, nhưng cũng ít được quan tâm thay đổi và nâng cao. Và đã mấy chục năm qua, tính từ 1960, chúng ngày càng trở nên cũ kỹ, khô cứng, giáo điều, ít sức sống, ít gắn với đời sống văn học thực sự. Trong điều kiện của một người giảng dạy LLVH ở đại học gần như bắt buộc phải có quan điểm của riêng mình về tất cả các nội dung LLVH cơ sở được đề cập đến trong một bộ giáo trình LLVH hệ Đại học, trong điều kiện cần phải nỗ lực nâng cao tiếp thu các vấn đề LLVH theo những nguồn tư liệu khác nhau trên thế giới, trong điều kiện bắt buộc phải thay đổi, nâng cao tính hiện đại của các vấn đề LLVH nảy sinh trong tiến trình vận động của thực tiễn văn hóa và văn học Việt Nam, Đình Sử luôn có ý thức nêu quan điểm riêng của mình, để dày công vun đắp nên một hệ thống những vấn đề LLVH ngày càng hiện đại, mới mẻ, tiếp cận với những trào lưu LLVH mới của thế giới với những ý tưởng riêng, độc đáo. Nếu tính trong lịch sử LLVH VN, điểm mặt người chuyên làm LLVH tức là những nhà nghiên cứu chuyên sâu về LLVH, viết sách LLVH, giới thiệu các khuynh hướng LLVH ở nước ngoài và vận dụng các quan điểm mang tính lí luận để nghiên cứu các hiện tượng văn học khoảng 40 năm nay, từ 1980 – 2020, có thể kể đến tên một số nhà nghiên cứu như Nguyễn Văn Hạnh, Hoàng Trinh, Hà Minh Đức, Hoàng Ngọc Hiến, Phương Lựu, Trần Đình Sử, La Khắc Hòa, Lê Ngọc Trà, Huỳnh Như Phương, Trương Đăng Dung, Nguyễn Văn Dân, Trịnh Bá Đĩnh… Nhưng là người đã đặt ra các vấn đề LLVH, có tư duy lí luận và có những kiến giải tạo nên những ảnh hưởng sâu rộng trong nền LLVH nước nhà, phải kể đến Trần Đình Sử. Ông thực sự là một nhà LLVH khi luôn cố gắng giải quyết các vấn đề LLVH, xây dựng các khái niệm LLVH, có ý thức về tư duy lí luận và lập luận và ứng dụng lí luận. Điều này thể hiện trong các bộ giáo trình LLVH ông tham gia và chủ biên Giáo trình LLVH, tập 1. 2, 1986-1987, 2005; Giáo trình LLVH hệ Cao đẳng, tập 1. 2, 2003-2005, trong các công trình chuyên sâu về LLVH như Những thế giới nghệ thuật thơ, 1995 và Tự sự học, chủ biên, 2017, Lí luận và phê bình văn học, 1996; Văn học và thời gian, 2001, Trên đường biên của lí luận văn học, 2014, Văn học so sánh, 2020 và những công trình về Thi pháp học. Là người gắn bó với việc giảng dạy ĐH, SĐH và hướng dẫn luận án TS, gần 60 năm qua, ông đã phải bàn đến khá nhiều vấn đề của nền LLVH nước nhà, qua nhiều giai đoạn, từ giai đoạn tiếp thu trực tiếp LLVH của Liên xô những năm 1960 – 1980, đến giai đoạn có những tiếp thu nguồn LLVH nước ngoài một cách sâu rộng sau thời kỳ Đổi mới từ 1986 đến nay, khi nhận thấy nội dung của hệ thống LLVH VN còn nhiều chỗ đơn giản, chưa hợp lý, cần đối thoại và phát triển. Đó là các vấn đề như phản ánh luận, ý thức hệ xã hội, văn học và hiện thực, đặc trưng văn học, hình tượng nghệ thuật, tư duy nghệ thuật, tiếp nhận văn học, văn bản và tác phẩm, ngôn ngữ văn học, phương pháp sáng tác, bản sắc dân tộc của văn học, kiểu sáng tác văn học và tiến trình vận động của văn học, lịch sử sáng tạo một tác phẩm văn học, diễn ngôn văn học…Đây là những vấn đề mà ông đã nhận thấy những hạn chế của sự gợi ý từ lí thuyết Xô viết và luôn muốn vượt ra khỏi, diễn giải lại, trình bày lại một số nhân tố trong lí thuyết truyền thống và diễn giải theo tinh thần tri thức mới. Đầu tiên, cần phải nhắc đến các bộ giáo trình LLVH cho hệ ĐH. Những người thực sự bắt buộc phải quan tâm, phải có trách nhiệm viết nên những bộ giáo trình này không nhiều. Nếu những năm 1960-1970, đội ngũ này còn khá đông, có thể kể đến như Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Văn Hạnh, Trần Văn Bính, Hà Minh Đức, Nguyễn Xuân Nam, Thành Thế Thái Bình, Lê Bá Hán, Phương Lựu, thì đến những năm 1980 – 1990, có Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam, Thành Thế Thái Bình, Trần Đình Sử, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hòa, sang đến những năm 2000, chủ chốt chỉ còn Phương Lựu và Trần Đình Sử. Tuy nhiên, Trần Đình Sử chỉ là chủ biên Tập 2 của giáo trình LLVH 1987, 2005 và chủ biên của giáo trình LLVH hệ Cao đẳng 2003-2005. Trong những phần đó, nỗ lực của ông để đổi mới giáo trình LLVH cũng là những đóng góp đáng ghi nhận. Có lúc, ông tâm sự với chúng tôi, về giáo trình LLVH, người Việt Nam mình thường có tư tưởng tự ti, không nghĩ người VN làm được LLVH, cho nên thường chỉ dừng lại ở sự sao chép nói chung. Có thể nói, các giáo trình LLVH, nếu không có tư tưởng mới thì sẽ không có LLVH mới. Còn các sách LLVH của ta, thực sự ít có gì mới mẻ, bởi làm LLVH rất khó. Người giới thiệu lí thuyết thì nhiều, nhưng để vận dụng vào nghiên cứu một hiện tượng văn học Việt Nam thì gần như không có. Người Việt vốn không có tư duy lí luận, tư duy phản tư, suy nghĩ thật sâu sắc một vấn đề, không chỉ LLVH. Ở một số luận văn, luận án thạc sĩ, tiến sĩ, vấn đề LLVH đặt ra và giải quyết mới chỉ như những thử nghiệm ban đầu trong nhà trường. Còn gần như không có các bước nâng cao tiếp theo… Đúng vậy! Hơn nữa, những người có trách nhiệm phải viết giáo trình quá ít, kể cả hệ thống giảng viên các trường ĐH có dạy môn LLVH. Chẳng ai nghĩ rằng cần phải viết giáo trình, trừ những người được Bộ Giáo dục hoặc Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp trước đây, hoặc trường ĐH mà họ là giảng viên, trao trách nhiệm, bắt buộc họ phải viết. Thực sự, hệ thống giáo trình này cũng không cần quá nhiều, nhưng nếu mỗi trường ĐH có chuyên ngành Văn có một bộ, độc đáo, khác hẳn nhau thì sẽ có những cơ hội mở ra nhiều hướng đi của LLVH VN. Tuy nhiên, vì là giáo trình, nên có những nội dung phụ thuộc vào chương trình mang tính pháp lệnh, nên cũng có cái khó nhất định đối với người viết sách mang tính LLVH kiểu nâng cao, ai có nhu cầu và khả năng thì quan tâm. Thực sự loại sách này có rất ít. Thuần túy lí luận chay thì ít ai cần. Còn tự đưa ra lí thuyết và ứng dụng vào các hiện tượng văn học, vào phê bình văn học đã có mấy ai. Nhưng trong tình thế ấy, Trần Đình Sử vẫn có những đóng góp riêng khi ông được tham gia viết giáo trình LLVH nói riêng và chủ động viết sách LL nói là người đưa ra vấn đề LLVH, giải quyết vấn đề và áp dụng vào một số hiện tượng văn học VN với khá nhiều ý tưởng mới lạ. Ngay từ lúc mới vào nghề, từ 1966, Trần Đình Sử đã luôn trăn trở với các vấn đề LLVH được đặt ra từ những năm 1950 với các bộ sách Nguyên lí, Cơ sở LLVH chủ yếu tiếp thu từ nền LLVH Xô viết của Abramovich, Timofeev. Từ thời đó, ông cùng một số giáo viên khác đã cảm nhận được sự sơ lược và và thiếu sức thuyết phục của nhiều nguyên lý văn học trong các giáo trình Xô viết và Việt Nam thời đó, nhưng hoàn cảnh lại chưa cho phép bất cứ thay đổi nào. Ông cứ một mình, cầm mẫn học hỏi, suy nghĩ, cần mẫn viết, cố gắng diễn đạt cho hết những suy nghĩ, biện luận, minh chứng của thế, ông đã viết một tiểu luận về Đặc trưng văn học, dày đến 100 trang đánh máy, trong những năm tháng chiến tranh chống Mỹ ác liệt nhất 1967 – 1972, trong hoàn cảnh ở nơi sơ tán của Đại học Sư phạm Vinh, đường sá xa xôi, chả có tư liệu tham khảo gì mấy. Vậy mà đến hôm nay, khi đọc lại những phần này, chúng tôi không khỏi kinh ngạc khi nhận thấy, với tuổi đời còn rất trẻ, chưa đến 30 tuổi, mà ông đã có những suy nghĩ đi trước thời đại với những suy ngẫm sâu sắc. Để nói lý do của việc viết tiểu luận này, gần đây, 2019, chính ông đã bộc bạch “Đây là bài viết của tôi năm 1972 tại khoa Văn Đại học Sư phạm Vinh, khi còn sơ tán ở Lăng Thành, Yên Thành Nghệ An. Đặc trưng văn học là khái niệm trung tâm của lí luận văn học. Bất mãn với lí thuyết thịnh hành đương thời, tôi tìm cách hiểu khác, vận dụng kí hiệu học, quan hệ chủ thể và khách thể, mĩ học tiếp nhận, đột phá nhận thức luận. Tôi đã nhìn đặc trưng văn học từ quan hệ chủ thể khách thể, xuyên suốt từ nhận thức đến thể hiện trong chất liệu, tạo ra một hệ thống thuật ngữ của riêng mình, phê phán triệt để quan niệm hình tượng thịnh hành lúc ấy trong các giáo trình. Với niềm say mê trẻ trung tôi không chỉ phê phán giáo trình lí luận văn học Việt Nam đương thời, mà còn phê phán cả lập luận giáo điều của Borev, Timofeev, đồng thời đưa ra lí thuyết của mình. Bây giờ nhìn lại không phải không có nhiều chỗ độc đáo còn đọc được. Tất nhiên bài viết không tránh khỏi những non nớt, ấu trĩ của một thời”Phần nói đầu cho tiểu luận Đặc trưng văn học – bản đánh máy. Trong tiểu luận này, ông đã đề cập đến các vấn đề cụ thể của hình tượng văn học với những góc độ khác, mới mẻ hơn. Ông say sưalập luận, minh giải cho ý tưởng của mình để thấy được hình tượng nghệ thuật không chỉ là số cộng của những sự thống nhất đơn giản như giáo trình hiện hành đang trình bày, mà có rất nhiều đặc tính quan trọng khác thể nghiệm và hư cấu, cái thấy được, cái không thấy được, tính sinh động nghệ thuật của hình tượng, sự thống nhất giữa những hình thức nghệ thuật cảm tính và ý thức của nghệ sĩ….Ông dựa vào một luận đề hoàn toàn mới, tức dựa vào lí thuyết hai hệ thống kí hiệu của văn học. Một là kí hiệu của giaotiếp bằng ngôn ngữ, hai là giao tiếp qua tạo hình phi ngôn ngữ như múa, âm nhạc, hội họa, nghĩa là qua tạo hình mà nhận ra thông tin. Xưa nay người ta nghiên cứu văn học thường dựa vào hai lý do sau ngôn ngữ tạo hình tức hình tượng, ngôn ngữ tự nhiên tức ngôn từ. Vì vậy chú ý hình tượng ở cấp độ tạo hình là con đường nghiên cứu cơ bản… Cách viết thật say sưa, sôi nổi, ý tưởng dạt dào. Những ý tưởng này sau đó được ông phát triển tiếp trong bài viết về Hình tượng văn học1984, và trong phần Đặc trưng của tư duy nghệ thuật và cấu trúc chỉnh thể của hình tượng nghệ thuật của giáo trình LLVH 1987, và vẫn được suy ngẫm trong bài viết Về phạm trù hình tượng văn học 2003 in trong Lý luận và phê bình văn đó cho thấy, cùng một vấn đề khoa học, có lúc tưởng chừng như cạn nghĩa, nhưng với nhiều cách tiếp cận khác nhau, vẫn luôn có được những ý tưởng mới mẻ, giàu sức thuyết hai bộ giáo trình LLVH hệ ĐH 1987 và 2005 và hệ cao đẳng 2003- 2005, ông đã đưa vào giáo trình nhiều quan điểm mới, hiện đại trên tất cả các nội dung cơ bản, từ đặc trưng đối tượng và nội dung văn học, tư duy nghệ thuật, cấu trúc hình tượng, ngôn từ như chất liệu của văn học, tiếp nhận văn học,đến văn bản, ngôn từ nghệ thuật, các loại hình nhân vật, các kiểu cốt truyện, cốt truyện và truyện kể…Có những nội dung rất mới mẻ so với thời điểm xuất hiện ở VN. Thí dụ, từ 1986, ông đã đưa Lí thuyết về tiếp nhận vào chương trình LLVH, mà thời điểm ấy, ở VN, chưa có mấy ai thực sự hiểu nó. Để nêu ra được các vấn đề LLVH này vào nhà trường, ông đã có những kiến thức và lập luận rất sắc sảo. Những đóng góp của ông về tư duy nghệ thuật, về cấu trúc hình tượng, cấu trúc nhân vật, điểm nhìn nghệ thuật, ngôn từ nghệ thuật,tính phi vật thể của hình tượng văn học… là những vấn đề cho đến tận hôm nay, chưa có ai vượt được ông trên phương diện nội dung giáo trình LLVH. Là những người trực tiếp giảng dạy LLVH ở bậc ĐH, chúng tôi thực sự đánh giá cao các bộ giáo trình này về mặt cập nhật kiến thức hiện đại và sự thuyết phục của hệ thống lập luận, vừa ở những quan điểm, vừa ở những thí dụ được phân tích. Ngoài ra, ở hệ SĐH vàđào tạo Tiến sĩ, ông còn có những chuyên đề như Thi pháp học, Văn học so sánh, Đặc trưng văn học, Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Di sản Bakhtin…Mong muốn của ông là trình bày được những thành tựu mới nhất của LLVH thế giới, trên hai nguồn tài liệu từ Nga và Trung Quốc. Những nội dung được ông đề cập đến trong các bộ giáo trình và các chuyên đề, là những cố gắng lớn của ông trong việc ngày càng nâng cao hệ thống LLVH trong nước để có thể tiếp cận dần đến trình độ LLVH của thế giới. Sau khi ra mắt cuốn Văn học so sánh 2019, ông đang chuẩn bị cho nội dung cuốn Quá trình văn học. Chúng tôi rất hy vọng vào điều này. Bởi sách của ông, dù là giáo trình đại học nhưng không hề lạc hậu với nền LLVH trên thế giới. Gần như tất cả các vấn đề mới mẻ của LLVH thế giới đều đã ít nhiều được ông đề cập đến. Là một nhà LLVH, ông là người đưa ra rất nhiều những khái niệm LLVH mới, có những khái niệm thuộc về khái niệm chung như quan niệm nghệ thuật về con người, thế giới nghệ thuật, cái nhìn nghệ thuật, mô hình tự sự, tính mơ hồ, đa nghĩa của ngôn ngữ nghệ thuật, điểm nhìn trần thuật, ngôn ngữ thân thể…, nhưng cũng có những khái niệm xuất phát từ những nghiên cứu một tác gia, tác phẩm, giai đoạn văn học cụ thể như thơ trữ tình chính trị, giọng điệu quyền uy, tiểu thuyết đời tư, chữ thân trong truyện Kiều, trữ tình điệu nói, diễn ngôn lí luận …Tất cả những khái niệm đó đều có những nội hàm mới mới mẻ, có sức thuyết phục, được các thế hệ đi sau dễ dàng sử dụng, coi như là những nội dung có tính chất phương pháp được dùng chìa khóa mới để đi vào tìm hiểu tác phẩm, tác giả và giai đoạnvăn học. Trong các luận án TS mà ông hướng dẫn thành công, có thể thấy, với mỗi luận án, ông đã cố gắng cùng nghiên cứu sinh tìm hiểu kỹ càng một khái niệm LLVH, từ quan niệm nghệ thuật về con người, cái tôi trữ tình, biểu trưng nghệ thuật, hoàn cảnh nghệ thuật, diễn ngôn tiểu thuyết, trò chơi nghệ thuật… đến kết cấu trữ tình, giọng điệu trữ tình,giọng điệu trần thuật, diễn ngôn tiểu thuyết, diễn ngôn lí luận phê bình… Những khái niệm này trở thành cơ sở lý thuyết để các NCS khảo sát về mặt thực tiễn văn học. Vì vậy, các luận án ông hướng dẫn về sau đều in được thành sách, làm hành trang nghiên cứu văn học bước đầu cho các nhà nghiên cứu LLVH thế hệ sau. Đóng góp để xây dựng đội ngũ này của ông thật không hề nhỏ. Chứng kiến quá trình hướng dẫn luận án TS của ông, suốt 30 mươi năm ở Bộ môn LLVH, ĐHSPHN, có thể nói, ông thực sự là một nhà LLVH có tư tưởng, không chỉ ở chỗ ông có một kiến văn rộng rãi, tiếp thu được nhiều nguồn LLVH mới của thế giới, mà với mỗi công trình LLVH của ông, dù có khi mới ở bậc luận án tiến sĩ do ông hướng dẫn, ông đều mong muốn xác lập lí thuyết, triển khai hệ thống lí thuyết, vận dụng vào một hiện tượng văn học cụ thể. Vừa tiếp thu lí thuyết từ nước ngoài, ông vừa cố gắng chuyển hóa những lí thuyết đó thành của riêng khi hệ thống lại, lập luận lại, tìm thí dụ trên những hiện tượng văn học nước nhà một cách khá thuyết phục. Khi hướng dẫn tôi làm luận án về Cái tôi trữ tình1994, ông đã dựa vào lý thuyết của nhà tâm lý học Vunt, để đưa ra mấy tiêu chí nhận biết về cái tôi nói chung làm tiền đề cho lý thuyết về cái tôi trữ tình, mà thực sự trước đó ở Việt Nam chưa có ai đề cập. Tôi nhớ, khi bài báo Cái tôi và hình tượng trữ tình của ông ra đời có sự tham gia của tôi – LLOanh, năm 1993, đăng trên báo Văn nghệ, GS Phan Trọng Luận đã bảo tôi chắc GS Luận tưởng tôi viết là chính Bài viết giỏi lắm, nhưng hơi uyên bác quá ! . Còn ai đã chứng kiến những buổi thảo luận về các luận án TS ở bộ môn LLVH ĐHSPHN, ở đó ông không chỉ nhận xét về nội dung khoa học của các luận án khác, mà còn phải bảo vệ cho tư tưởng chính của luận án ông hướng dẫn, mới thấy ông là nhà LLVH luôn nhất quán nhiệt tình bảo vệ cho những quan điểm của mình. Ông không chỉ lo cho luận án ông hướng dẫn mà còn quan tâm đến những luận án khác của Bộ môn. Luận án nào có khó khăn, ông đều tìm cách giúp tháo gỡ, không kể luận án do ông hướng dẫn hay người khác hướng dẫn. Học trò cứ tìm đến ông là ông trình bày hiểu biết của mình như rút hết gan ruột. Cũng dưới sự hướng dẫn, góp ý của ông mà những luận án của bộ môn LLVH trong nhiều năm qua đã không tách rời các hướng nghiên cứu văn học mang tính thời sự, mà còn luôn gắn bó với đời sống văn học và đời sống thực tiễn của đất nước. Có thể kể đến những luận án như Tiểu thuyết VN đương đại, nhìn từ góc độ diễn ngôn,Lí thuyết trò chơi và một số hiện tượng thơ VN đương đại,Sự chuyển đổi diễn ngôn lí luận phê bình văn học VN từ thời kì đổi mới đến nay, Phê bình văn học VN 1945 -1986,Văn xuôi VN sau 1986 dưới góc nhìn phê bình sinh thái.. Không chỉ dừng lại ở những vấn đề LLVH trong nhà trường, ông còn luôn nâng cao các vấn đề LLVH thể hiện qua cácchuyên luận, qua các bài tranh luận trên báo chí… Ông đã có 3 cuốn Lí luận và phê bình văn học, 1996; Văn học và thời gian, 2001, Trên đường biên của lí luận văn học, 2014, tuyển những bài chuyên về LLVH, cả về phê bình văn học. Trong ba cuốn sách này, ông tập trung vào các vấn đề LLVH nảy sinh từ nhà trường cho đến các vấn đề nảy sinh trong giao lưu ý tưởng LLVH trong đời sống xã hội. Vẫn là những trăn trở củamột nhà LLVH, khi ông nhận thấy “cả đời đã được đào tạo trong môi trường lí thuyết cũ, bao nhiêu năm tuổi trẻ dành đọc các lí thuyết xơ cứng, đã nhận thấy những hạn chế của lí thuyết xô viết và tìm cách diễn giải lại”, ông đã “cố gắng tìm hiểu trình bày lại một số khái niệm cơ bản trên tinh thần khẳng định các nhân tố hợp lí trong lí thuyết truyền thống và diễn giải lại theo tinh thần tri thức mới” Lời nói đầu cuốn Trên đường biên của LLVH. Có những khái niệm, những vấn đề mà theo những tài liệu hiện hành ở VN thì tưởng chừng như cạn nghĩa, nhưng dưới suy nghĩ của ông, còn rất nhiều điều còn cần phải bàn đến như Tính nhân loại của văn học, Ý thức về cá tính,Bản sắc dân tộc của văn học, Ngôn ngữ thơ, Ngôn ngữ nghệ thuật, Phản ánh luận, Ý thức hệ, Văn học và hiện thực …Những ý kiến và quan điểm được trình bày luôn mang tính đối thoại với những ý tưởng cũ. Bên cạnh đó là nhũng vấn đề hoàn toàn mới như Hệ hình mới của lí luận, Cấu trúc đối thoại, Văn học là tư duy về cái khả nhiên, Tính kí hiệu của hình tượng văn học, Bước ngoặt diễn ngôn và chuyển đổi hệ hình trong nghiên cứu văn học…Ba cuốn sách này, đặc biệt là cuốn Trên đường biên của lí luận văn học, đều được giới chuyên môn đánh giá cao như những hiện tượng nổi bật của LLVH VN những năm gần đây. Trước đó, với Những thế giới nghệ thuật thơ, ông đã tổng kết, khái quát về một số các loại hình thơ ca cơ bản như thơ cổ điển, thơ lãng mạn, thơ tượng trưng, thơ cách mạng. Các loại hình thơ ca được trình bày có hệ thống, được phân tích toàn diện, có rất nhiều thí dụ thuyết phục, rất có ý nghĩa với những người quan tâm đến sự tổng kết mang tính lịch sử về thơ ca, không chỉ VN mà còn cả trên thế giới. Về Tự sự học, một trong những hướng đi của nghiên cứu văn học thế giới, mới du nhập vào VN khoảng 20 năm nay, ông đã chủ trì hai Hội nghị khoa học toàn quốc năm 2001 và 2009, tập hợp thành hai cuốn kỉ yếu Tự sự học- những vấn đề lí luận và thực tiễn in năm 2006 và 2010, được dư luận đánh giá là hai cuốn sách có những giới thiệu về Tự sự học mà ai ở VNquan tâm về Tự sự học không thể bỏ cũng để nâng cao hơn nữa về việc giới thiệu cũng như thực hành Tự sự học, ông đã cùng nhóm nghiên cứu cho ra đời Tự sự học – Lí thuyết và ứng dụng,2017, giới thiệu một cách có hệ thống những nội dung cơ bản và mới mẻ nhất của Tự sự học trên thế giới và VN. Theo ông, lí thuyết là để vận dụng. Vì vậy ông hầu như ít giới thiệu mà đưa ra một hệ thống lý thuyết của riêng mình, kết hợp nhiều quan niệm của các nhà khoa học đi vận dụng LLVH trong những công trình về thi pháp học của ông là những minh chứng thành công về phương diện này. *** Cuộc đời con người vừa dài vừa ngắn! Ngẫm nghĩ lại, đời người quá dài vì tám mươi năm trải qua bao nhiêu thăng trầm, chứng kiến bao biến thiên của đất nước, thời cuộc, có thể làm được bao nhiêu việc, để lại cho đời bao điều có giá trị. Nhưng cuộc đời cũng quá ngắn vì con người còn muốn làm bao nhiêu việc có ích cho đời nữa. Nhân dịp GS. Trần Đình Sử tròn tám mươi xuân, chúng tôi, những kẻ hậu sinh xin chúc GS., nhà LLVH, nhà thi pháp học, vẫn tiếp tục cống hiến cho nền LLVH của Việt Nam những sản phẩm tinh thần luôn ở dạng đỉnh cao mà khó có ai vượt qua được!. 29/3/2020
Toquoc- Trong vài ba chục năm gần đây việc phiên dịch, giới thiệu và vận dụng thi pháp học vào nghiên cứu văn học ở Việt Nam ngày càng được quan tâm và triển khai một cách sâu rộng. Nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu và luận văn từ bậc đại học tới sau đại học đã thấy xuất hiện thuật ngữ thi pháp cũng như việc vận dụng thao tác thi pháp học vào tìm hiểu các thể loại, trào lưu, tác gia, tác phẩm văn học tiêu biểu, rõ nhất với văn học trung đại và giai đoạn 1932-1945. Thực tế cho thấy, xét trong mặt bằng tư duy lí luận, khi mà các phương pháp nghiên cứu dừng lại khá lâu ở các bình diện “nhà văn và tác phẩm”, “gương mặt nhà văn”, “đời và thơ”, “văn học và hiện thực”… thì làn sóng nghiên cứu thi pháp quả đã góp phần tiếp thêm sinh khí cho đời sống học thuật. Cho đến nay, thông qua các công trình dịch thuật và từ điển văn học, có thể nói giới nghiên cứu và bạn đọc rộng rãi đã nắm bắt được những vấn đề cơ bản nhất của thi pháp và thi pháp học. Theo quan sát của chúng tôi, một trong những người đi tiên phong trong lĩnh vực này là nhà nghiên cứu, lý luận và phê bình văn học, - GS. TS. Trần Đình Sử. Ghi nhận những đóng góp của ông, nhiều đồng nghiệp và học trò thuộc nhiều thế hệ đã thực hiện công trình tập hợp Thi pháp học ở Việt Nam Nhân 70 năm sinh GS. TS. Trần Đình Sử NXB Giáo dục Việt Nam, H., 2010, 638 trang. Ngoài phần một Toàn cảnh thi pháp học có ý nghĩa khái quát của GS. Trần Đình Sử sách còn có hai phần Tuyển chọn những công trình tiêu biểu gồm 41 mục tiểu luận nghiên cứu tiêu biểu chuyên về thi pháp và những vấn đề liên quan của nhiều tác giả; Ấn tượng Trần Đình Sử tập hợp 23 mục bài hồi ức, kỷ niệm, suy tư của nhiều thế hệ nhà nghiên cứu, đồng nghiệp và học trò về GS. Trần Đình Sử. Nhìn rộng ra, đây chính là sự tri ân của học giới đối với nhà giáo, nhà lý luận, chuyên gia thi pháp Trần Đình Sử, đồng thời cũng là sự bác bỏ đích đáng tiếng nói lạc lõng, báo động giả về cái gọi là “loạn thi pháp”… Không chỉ là người tham bác, góp phần giới thiệu lý luận thi pháp qua các nguồn tài liệu kinh điển của Nga, Trung Quốc, GS. Trần Đình Sử còn bỏ nhiều công sức cho việc áp dụng thi pháp học vào nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam. Khởi đầu từ tiểu luận Thời gian nghệ thuật trong Truyện Kiều và cảm quan hiện thực của Nguyễn Du Tạp chí Văn học, số 5-1981, Cái nhìn nghệ thuật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều Tạp chí Văn học, số 6-1983; cùng nhiều công trình nghiên cứu khác, ông góp phần tạo dựng và phát triển chuyên ngành thi pháp văn học Việt Nam trong suốt hơn ba thập kỉ vừa qua. Trong vai trò người mở đường, ông đã dẫn giải và giúp học giới làm quen với hệ thống khái niệm, thuật ngữ thi học như thi pháp học cổ điển, thi pháp học hiện đại, cái nhìn nghệ thuật, điểm nhìn nghệ thuật, thế giới nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, tư duy nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật, quan niệm về con người, giọng điệu, hình thức mang tính quan niệm, hình tượng tác giả Đi qua cả một chặng đường dài, GS. Trần Đình Sử đã có nhiều công trình dịch thuật, giới thiệu ở tầm mức khái quát cũng như đi sâu tìm hiểu từng phương diện thi pháp học với nhiều qui mô khác nhau như Thi pháp Đốtxtôiépxki 1985, Mấy vấn đề lý luận thi pháp tác giả của M. Bakhtin 1992, Giáo trình thi pháp học 1993, Những thế giới nghệ thuật thơ và Thi pháp thơ Tố Hữu 1995, Về thi pháp thơ Đường biên soạn và dịch thuật, 1997, Dẫn luận thi pháp học 1998… Xét về cách tiếp cận và phạm vi nghiên cứu có thể thấy rằng do bản thân đặc điểm nội dung đối tượng quy định nên tác giả thường dựa trên cơ sở nắm vững các thủ pháp, thao tác của thi pháp học đại cương mà tập trung khảo sát thi pháp học chuyên biệt tức là thực hiện việc miêu tả tác phẩm văn học chủ yếu ở các phương diện ngữ âm, từ vựng và hình tượng nhằm xây dựng “mô hình” một hệ thống những thuộc tính có tác động thẩm mĩ của tác phẩm. Định hướng này thế hiện rõ khi tác gia nghiên cứu một số vấn đề thi pháp Truyện Kiều, một số phương diện thế giới nghệ thuật của nhà thơ và tác phẩm thơ, đặc điểm thi pháp thơ Mới và thơ Tố Hữu… Đây cũng chính là những công trình nghiên cứu cơ sở, những bước chuẩn bị công phu và chắc chắn để tiến tới bước tổng kết học thuật chuyên sâu trong Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam 1999 và tâm điểm là Thi pháp Truyện Kiều 2001. Đến nay, cả hai công trình tiêu biểu này đều đã được tập hợp trong bộ sách Trần Đình Sử - Tuyển tập, hai tập Nguyễn Đăng Điệp tuyển chọn. NXB Giáo dục, H., 2005 Tập I 888 trang; Tập II 932 trang… Trở lại công trình Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam NXB Giáo dục, H., 1999, 444 trang, GS. Trần Đình Sử trong Phần thứ nhất - Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại đã nhấn mạnh lịch sử vấn đề, giới thiệu phạm vi cũng như các khía cạnh lý luận giao thoa với đề tài. Trên cơ sở nắm vững lý luận thi pháp và tìm hiểu kỹ các công trình nghiên cứu mẫu mực, kinh điển của nước ngoài cũng như thực tế lịch sử văn học dân tộc, ông xác định rõ “Công trình này sở dĩ được gọi là Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam là bởi vì nó được gợi ý từ nhiều công trình nghiên cứu thi pháp văn học trung đại của các tác giả hiện đại nước ngoài, trước hết là các tác giả Nga” đồng thời nhấn mạnh các khía cạnh, mối quan hệ và quá trình phát triển “thi pháp học từ truyền thống tới hiện đại”, “thi pháp văn học trung đại trong thi pháp học hiện đại”, “vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam” và chỉ ra sự tương hợp của việc đặt các tác phẩm trung đại “trên các mẫu số chung để nhận ra cái khác biệt và cái độc đáo” tức là đặt trong tầm quan sát “thời gian lớn” của lịch sử văn học. Đồng thời với việc giới thuyết “xét riêng về hệ thống văn học thì có thể xem văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX thuộc phạm trù trung đại”, tác giả cũng rất chú ý đến bình diện lịch sử và mối quan hệ biện chứng khi đặt văn học dân tộc trong quá trình phát triển chung “Xây dựng mô hình chung có tính nhân loại, tính đến đặc thù khu vực và dân tộc có thể cho phép nhìn nhận văn học dân tộc trong bối cảnh chung của nhân loại” Đây cũng là sự thận trọng cần thiết để tránh xu hướng hiện đại hóa văn học quá khứ hoặc rập khuôn máy móc mô hình lý luận văn học nước ngoài vào Việt Nam. Từ việc giới thiệu kết quả nghiên cứu thi pháp văn học trung đại qua một số công trình tiêu biểu, GS. Trần Đình Sử cho thấy vấn đề thi pháp văn học trung đại đã được đặt ra chủ yếu trên bốn phương diện a Quan niệm văn hóa thẩm mĩ, bao gồm quan niệm tổng quát về văn học, về tác giả, về thể loại, về ngôn ngữ nói chung. b Thể loại văn học với hệ thống đặc trưng trong loại hình của nó. c Hệ thống các thủ pháp, các phương pháp nghệ thuật thể hiện cho cách chiếm lĩnh, cảm nhận đời sống của con người trung đại. d Hệ thống từ chương học với các nguyên tắc sử dụng ngôn từ trên các cấp độ. Đó cũng chính là những phương diện chủ yếu được tác giả coi là “sườn khái quát” để triển khai cụ thể ở Phần thứ hai - Một số vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, phần trọng tâm của tập sách gồm 5 chương. Đúng như nhan đề sách “Mấy vấn đề…” có ý nghĩa khơi dẫn, khởi thảo cũng như cảm nhận chuẩn mực của tác giả rằng việc nghiên cứu thi pháp văn học trung đại “là một lĩnh vực hết sức khó khăn”, đòi hỏi phải có cách thức giải quyết hợp lí. Những khó khăn đặt ra không phải chỉ về lí thuyết, về tư liệu, về sự thâm nhập và khả năng phân tích tác phẩm mà còn bởi thách thức của bản thân các giai đoạn, các thể loại vừa không thuần nhất lại phát triển không đồng đều, không theo một quá trình liên tục. Trong khi đó yêu cầu khoa học đặt ra cho công trình là phải miêu tả tác phẩm văn học cá biệt cũng như cụm tác phẩm trong sáng tác của một nhà văn, một thể loại, một trào lưu, một giai đoạn và tiến tới bao quát, khái quát những đặc điểm thi pháp văn học của cả thời trung đại kéo dài tới suốt cả một thể kỷ. Đứng trước thực tế ấy, tác giả đã tập trung xem xét văn học trung đại Việt Nam như một hệ thống đặc thù của khái niệm văn học văn, văn chương, văn nghệ và nghệ thuật ngôn từ…, hệ thống thể loại theo kiểu văn tự Hán và Nôm, việc tiếp thu toàn diện hệ thống thể loại văn học chữ Hán của Trung Quốc và khả năng biến đổi - sáng tạo, chức năng thuần túy văn học và chức năng ngoài văn học…, điều đáng chú ý là ở phần viết này tác giả thường đặt đối tượng trong sự đối sánh, so sánh với văn học hiện đại và tương quan giao tiếp với văn học trung đại Trung Quốc để làm nổi bật các sắc thái văn học trung đại Việt Nam. Với công trình Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, do nhiệm vụ cần hướng tới khái quát, tổng kết đặc điểm thi pháp văn học của cả một thời đại mà bên cạnh trọng tâm thi pháp học chuyên biệt, người viết gia tăng áp dụng thi pháp học lịch sử, chú trọng khảo sát sự phát sinh phát triển của các thể loại cũng như đi sâu tìm hiểu ranh giới phân chia phạm vi văn học và ngoài văn học với tất cả sự vận động và đổi thay của chúng. Tùy theo phạm vi và đặc điểm thể loại khác nhau mà tác giả triển khai áp dụng thi pháp học chuyên biệt để xác định kết cấu, tức là các tương quan của tất cả các yếu tố trong chỉnh thể nghệ thuật. Tinh thần chủ đạo của việc phân tích các phương tiện nghệ thuật nhằm xây dựng điểm nhìn nghệ thuật cách hình dung về thế giới có tác dụng quy định tất cả mọi điều cơ bản của cấu trúc tác phẩm. Quá trình phân tích này thường căn cứ trên ba phương diện chủ yếu là không gian nghệ thuật điểm nhìn và trường nhìn, không gian ám ảnh, không gian ám ảnh, không gian có giới hạn hay đóng và mở…; thời gian nghệ thuật tính tuần tự của văn bản, thời gian tâm lí và các biến thể nhịp điệu thời gian…; và cuối cùng là hình tượng tác giả vai trò cá nhân sáng tạo của cái “tôi”, giọng điệu người trần thuật, người kể chuyện hoặc nhân vật trữ tình…. Có thể nói các phương diện trên đã được triển khai sâu sắc và cũng đạt kết quả học thuật rõ nét nhất qua ba chương; Các thể thơ trữ tình, Thể loại truyện chữ Hán, Diễn ca lịch sử và truyện thơ Nôm Chương II, IV và V… Đi sâu xem xét các chương mục chủ đạo trong Phần thứ hai - Một số vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam sẽ thấy tác giả vận dụng khá linh hoạt lí thuyết thi pháp vào từng thực thể, từng đối tượng văn học. Có hai “điểm nhìn” thi pháp học được triển khai nương theo mức độ tính chất điển hình của tác phẩm văn học. Thứ nhất là “cái nhìn thể loại” nhằm khám phá những đặc điểm thi pháp của nhiều thể loại như ngâm khúc “Ngâm khúc đã phát triển đến tột độ quan niệm tự tình của thơ trữ tình trung đại. Chính việc kể lể tình cảm mới tạo khả năng sáng tác được khúc ngâm dài mà không cần đến cốt truyện” hát nói “Nếu như ngâm khúc thể hiện một con người cô đơn đau xót đi tìm những giá trị của mình đã bị mất mát thì thể thơ hát nói, một thể thông dụng trong ca trù, lại thể hiện một con người tài tử thoát vòng cương tỏa, thoát sáo, thoát tục lụy, danh lợi, nắm lấy phút giây hiện tại… Nhưng cái chính thơ hát nói là thể thơ điệu nói […], đánh dấu xu hướng mở rộng lĩnh vực của thơ sang địa hạt giọng điệu nói” tiểu thuyết chương hồi chữ Hán “là thể loại văn học gắn liền với lịch sử, trực tiếp lấy lịch sử làm đề tài. Nó thể hiện nổi bật nhất tính chất văn sử bất phân đồng thời cũng thể hiện rõ chất văn học do chú trọng vào tính cách, chi tiết biểu hiện và hình thức tổ chức tác phẩm. Mặt khác, do gắn với lịch sử, số phận nhân vật ít khi có hậu, mà thường là bi kịch. Đây là đặc điểm quan trọng làm cho các tác phẩm văn học viết khác hẳn văn học truyền miệng dân gian” truyện diễn ca lịch sử “Diễn ca lịch sử là một loại truyện vừa có tính chát sử vừa có tính chất văn học, được viết bằng văn vần […]. Thể thức này vừa giống với các tập sử ký, vừa giống với các tiểu thuyết diễn nghĩa, lại pha xen cả Hán lẫn Nôm, tác phẩm Nôm mà tên bằng chữ Hán, một bằng chứng của sáng tác song ngữ […]. Cái chính là nó kể lại lịch sử dân tộc bằng những hình tượng kì vĩ, bằng tưởng tượng táo bạo, bằng ngôn từ ngợi ca nhiệt tình, bằng lập trường dân tộc” Nói riêng ở truyện thơ Nôm, tác giả nêu rõ ý kiến phản biện với định hướng khái quát các đặc điểm thi pháp thể loại truyện Nôm theo quan điểm folklo học và đẩy mảng truyện Nôm sang địa hạt văn học dân gian, đồng thời biện luận cho một quan niệm có phần khác biệt - trong đó nhấn mạnh tư duy sáng tác làm truyện và phương thức lưu truyền bằng văn tự “Truyện Nôm là sản phẩm sáng tạo kết hợp các cốt truyện có sẵn với khả năng tự sự của lục bát. Nó sáng tác để kể, nhưng cũng để xem… Truyện Nôm được sáng tác với ý thức làm truyện rõ ràng đã chứng tỏ tác giả bình dân muốn làm văn học viết. Xem trong truyện Nôm ta có thể tìm thấy nhiều câu tuy đưa đẩy, nhưng đã thể hiện ý thức sáng tác bằng văn tự, cho nên không thể nói giản đơn là sáng tác cốt để kể… Nó không đơn giản là đem truyện cổ tích kể lại bằng thể lục bát, mà là sáng tác thành một dung lượng mới… Ở truyện Nôm tác giả phải sáng tạo lời kể cố định, lời thoại cho nhân vật, lời than, lời bình cho mình… Theo chúng tôi truyện Nôm có một phạm vi tự sự, một “mức độ” cụ thể trong miêu tả sự việc, con người. Đó là chú ý miêu tả lời nói, ý chí, tâm trạng nhân vật. Dù chất lượng nghệ thuật cao thấp khác nhau, nhưng các yếu tố này không bao giờ thiếu” Thứ hai là việc lựa chọn đối tượng phù hợp để phân tích các phương diện biểu hiện nghệ thuật như “quan niệm về con người trong thơ”, chủ yếu là “sự vận động và phát triển của con người trong thơ trữ tình với việc phân xuất đặc điểm theo các giai đoạn thể kỷ X - XIV, thế kỷ XV - hết thế kỷ XVII và thế kỷ XVIII - hết thế kỷ XIX và con người trong truyện thơ Nôm qua ba “chặng” hình thành và phát triển con người trong truyện thơ Nôm kể bằng thất ngôn Đường luật, trong truyện thơ Nôm bình dân và trong truyện Nôm của văn nhân…; có khi phân tích bao quát “thời gian và không gian nghệ thuật trong thơ” theo các phương diện cảm nhận nghệ thuật cụ thể gồm thời gian nghệ thuật trong thơ với việc xác định mô hình chung; xem xét các khía cạnh “thời gian vũ trụ bất biến” như vô thời gian trong thơ thiền, thời gian bất biến, tĩnh tại trong thơ nhà nho, thời gian lịch sử trong tương quan với thời gian vũ trụ và thời gian con người trong thơ ca… và không gian nghệ thuật trong thơ với việc khái quát những đặc điểm chung về cảm thụ không gian trong thơ trung đại, không gian nhàn tản thoát tục, không gian hoang dại tiêu điều biến dịch, không gian luân lạc trong thơ Nguyễn Du và các tác giả khác, không gian trần tục hóa trong thơ Hồ Xuân Hương và không gian thế tục hóa vào cuối thời trung đại…; hoặc có khi phân xuất chỉ tập trung khảo sát “thời gian trong truyện và tiểu thuyết” bao gồm thời gian trong truyện chữ Hán với tính lịch sử ước lệ, thần thoại vĩnh hằng và truyện khép kín qua các tác phẩm chủ yếu như Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái, Thiền uyển tập anh, Truyền kì mạn lục, Tang thương ngẫu lục, Vũ trung tùy bút… và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết chương hồi Việt Nam với đặc điểm ưu tiên miêu tả sự kiện trong thời gian liên tục, sự hình thành công thức phục vụ cho phân tuyến trần thuật đứng từ một khoảng cách xa, đứng ngoài nhân vật điều khiển xâu chuỗi sự việc chứng tỏ một sự tiểu thuyết hóa lịch sử ở bình diện kết cấu sự kiện chứ chưa tiểu thuyết hóa ở khoảng cách trần thuật trong tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí; các sự kiện nhân quả lồng vào trong thứ tự thời gian, giữa các hồi có thời gian bỏ lửng hoặc thời gian xếp chồng nhưng về cơ bản không làm thay đổi hình thức liên tục, biên niên ở Nam triều công nghiệp diễn chí; có khi thời gian thứ tự truyền thuyết, thời gian trong truyện ghi theo sự kiện thuần túy, kể sự tích theo tuổi và theo năm, năm này kế tiếp theo sau năm khác như trong Tây Dương Gia Tô bí lục…. Như vậy, xuất phát từ bản chất đối tượng tác phẩm mà nhà nghiên cứu khai thác nhiều hơn ở khía cạnh đặc điểm thể loại và thể văn ngâm khúc, hát nói, diễn ca, lịch sử, phú và các thể văn Hán và Nôm trung đại hay các phương diện quan niệm con người - thời gian và không gian nghệ thuật ở các thể thơ trữ tình, thể loại truyện chữ Hán và truyện thơ Nôm. Điều này một mặt cho thấy sức mạnh của lý luận thi pháp tập trung chủ yếu ở việc áp dụng vào dòng văn học chủ lưu mà khó khai thác ở các thể loại và thể văn đường biên như chiếu, tấu, thư, văn tế, bi, tự…; mặt khác lại cho thấy tính chất phức tạp, khó đạt tới tính thống nhất trong quá trình tiếp cận, triển khai các vấn đề chẳng hạn, bạn đọc còn mong có lời giải quan niệm nghệ thuật về con người và không gian trong truyện và tiểu thuyết trung đại, quan niệm về con người - thời gian và không gian trong diễn ca lịch sử, quan niệm về thời gian - không gian nghệ thuật trong truyện thơ Nôm… Trong công trình Thi pháp Truyện Kiều 2001, in trong Trần Đình Sử - Tuyển tập, Tập I. Sđd, GS. Trần Đình Sử triển khai các vấn đề lý thuyết thi pháp vào nghiên cứu một tác phẩm cụ thể là kiệt tác Truyện Kiều. Qua chương một - Những chặng đường nghiên cứu thi pháp Truyện Kiều, tác giả lược dẫn những cách thức và kết quả nghiên cứu thi pháp Truyện Kiều trước đây thường dừng lại ở những yếu tố, những tìm tòi riêng biệt, lẻ tẻ, từ đó nhấn mạnh tính mục đích “nhằm khám phá cho được hệ thống hình thức mang tính quan niệm của tác phẩm”… Ở năm chương tiếp theo, tác giả đi sâu khai thác các đặc điểm về cơ sở căn rễ văn hóa, về thế giới nghệ thuật Truyện Kiều cách kể chuyện của Nguyễn Du, cái nhìn nghệ thuật về con người, hình tượng tác giả, không gian và thời gian nghệ thuật, về mô hình tự sự và ngôn ngữ nghệ thuật hình thức tự sự, mô hình cốt truyện và thể loại, giọng điệu nghệ thuật cảm thương… và chương cuối cùng là Sức sống Truyện Kiều nhằm nhấn mạnh giá trị tự thân của tác phẩm trong tương quan hệ thống thể loại truyện thơ Nôm, khả năng đúc kết các giá trị thẩm mỹ và mở ra những chân trời tiếp nhận Truyện Kiều khác nhau. Điều này thể hiện như một minh chứng rằng, với cùng một tác phẩm, khi nhà nghiên cứu thay đổi điểm nhìn gắn với những lý thuyết mới, phương pháp mới thì bản thân tác phẩm lại tiếp tục tỏa sáng, mở ra những chiều kích tư duy nghệ thuật mới mẻ. Bên cạnh các công trình nghiên cứu từ các phương pháp và điểm nhìn xã hội học, ngôn ngữ học, phong cách học, văn hóa học, so sánh, thể loại, loại hình, tiếp nhận, liên ngành…, phải ghi nhận và khẳng định việc GS. Trần Đình Sử vận dụng lý thuyết thi pháp vào nghiên cứu Truyện Kiều đã đưa đến những kết quả học thuật thực sự sáng rõ, trở thành bài tập mẫu cho nhiều công trình nghiên cứu văn học Việt Nam theo phương hướng thi pháp học. Đồng hành và tiếp nối với Trần Đình Sử, trong khoảng hai chục năm nay ở Việt Nam đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu, chuyên luận, chuyên khảo bàn về thể loại, thể tài, thể văn, tác giả, tác phẩm đặt rõ vấn đề áp dụng thi pháp hay có kèm thêm thuật ngữ “thi pháp” chẳng hạn Nguyễn Xuân Kính, Thi pháp ca dao 1992; của Nguyễn Thị Bích Hải, Thi pháp thơ Đường 1995; Lê Trường Phát, Thi pháp văn học dân gian 2000; Tất Thắng, Về thi pháp kịch 2000; Trần Đình Sử - Nguyễn Thanh Tú, Thi pháp truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan 2001; Nguyễn Huy Hoàng, Tìm hiểu thi pháp truyện ngắn Gogon 2001; Phạm Mạnh Hùng, Thi pháp hoàn cảnh trong tác phẩm của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao 2001; Trần Khánh Thành, Thi pháp thơ Huy Cận 2002; Đào Ngọc Chương, Thi pháp tiểu thuyết và sáng tác của E. Hemingwey 2003; Phan Thu Hiền, Thi pháp học cổ điển Ấn Độ 2006..., hoặc có liên quan và giao thoa với một số phương diện căn cốt của thi pháp học chẳng hạn Phạm Thu Yến, Những thế giới nghệ thuật ca dao 1998; Vũ Văn Sĩ, Về một đặc trưng thi pháp thơ Việt Nam 1945 - 1995 1999; Nguyễn Đăng Điệp, Giọng điệu trong thơ trữ tình 2002; Lê Quang Hưng, Thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu 2002; Hồ Thế Hà, Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên 2004 Qua hơn bốn mươi năm gắn bó với công việc giới thiệu lý thuyết thi pháp, GS. Trần Đình Sử đã có những đóng góp quan trọng vào tiến trình phát triển lý luận và nghiên cứu khu vực văn học Việt Nam. Đây là những công trình khoa học thực sự chuyên sâu, không chỉ nhằm miêu tả, minh định các thực thể văn học khác nhau mà tập trung hướng tới giải quyết một vấn đề phức tạp rộng lớn hơn đưa ra cách hình dung “điểm nhìn” bao quát những vấn đề thi pháp chung nhất, liên quan đến tất cả các vấn đề về thời đại, loại hình văn học, thể loại và thể văn khác biệt nhau. Có thể khẳng định GS. Trần Đình Sử đã góp phần đào tạo đội ngũ, nâng cấp mặt bằng nghiên cứu nói chung cũng như tạo lập điểm tựa, định hướng và gợi mở cho nhiều công trình tìm hiểu, nghiên cứu thi pháp văn học Việt Nam và văn học thế giới những năm tiếp theo. Hà Nội, 2000- tháng 3/2013 Nguyễn Hữu Sơn
giáo sư trần đình sử